Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2024

Nuôi Tâm Sinh Thiên Tài (P1)

“Nuôi Tâm sinh thiên tài....

Nuôi Óc sinh nhân tài....

Nuôi Thân sinh nô tài....” (Lý Đông A)

Bởi vì hồn ma "Tùng Lâm" về ám chủ tịch nước Tô Lâm đi ăn bò vàng về làm trò cười: cấm dân rắc tiêu theo nhịp điệu sóc Băm Bo. Khi lãnh đạo nước được sinh ra để làm nô tài thì cả nước có hy vọng tiêu vong vì nạn Tàu đô hộ. Người dân Việt có thể làm gì được khi "nhân tài" bỏ nước đi du lịch không về. Ngay cả dân lao động cũng tìm đường đi Tây, lấy Mỹ (Việt kiều). Vậy có thể nào nào nuôi Tâm để trở thành thiên tài cứu nước, duy trì nòi giống Việt? Thiên tài thì có nhiều loại mà Nguyễn Du đã nhắc khéo "chữ Tài liền với chữ Tai một vần" (chỉ có trong tiếng Việt). Nhưng trước khi nói về "Tài" là gì thì hãy nói về "Tâm". Nuôi Tâm mới có Tài.

Nuôi Tâm

Tác giả 3 câu vè đã không nói kỹ là "nuôi" có nghĩa là tu dưỡng, là lâu dài, là bồn gột rửa, là bách chiết thiên ma (chống cám dỗ), là giam bó để rèn luyện.... cái gì? Cái Tâm. Vậy "Tâm" là gì?

Phải biết Tâm là gì? Cây cỏ hay thú vật? Tròn hay méo? Dài hay ngắn? Cao hay thấp? Có tai, mắt mũi, miệng, tứ chi hay như cục đất? Có biết mới "nuôi", có ăn ở mới phát triển thành "Thiên tài". Nếu thất bại thì Thiên tài có thể chỉ là Nhân tài mà sẽ không phải Thiên tai?

Tâm? Mọi người đều có tâm nhưng tại sao khác nhau? Mọi người đều ăn để nuôi thân và tâm. Nhưng phải chăng "nuôi Tâm" là ám chỉ hình thức khác để rèn luyện tinh thần, khí chất, ý chí... như các nhà tu đã trải qua để đạt tình trạng viên mãn. Vì chỉ khi nào giải quyết được mọi vấn đề của bản thân thì mới có thể hiểu và cứu người khác. Vậy tìm Tâm ở đâu? Thuyết Duy Tâm có giải thích được Tâm là gì chăng? Nhà Phật nói rất nhiều về Tâm: "Tu Tâm dưỡng Tánh" nhưng "Tâm viên Ý mã"; Tâm như con vượn (khỉ) nhảy liên hồi, trong khi Ý (muốn) như ngựa chạy không ngừng. Bởi thế mới có "Tướng (tánh) tự Tâm sinh, Tướng tùy Tâm diệt" .... Câu chuyện An Tâm trong Phật học:

Khi Đạt Ma hỏi Huệ Khả: nhà người cầu gì?

Huệ Khả: Con tìm phương pháp an Tâm.

Đt Ma: Đưa tâm cho ta, ta sẽ an cho.

Huệ Khả: Con không thấy tâm đâu cả.

Đạt Ma: Ta đã an tâm cho con.

Huệ Khả ngay đó liền đại ngộ. Vậy khi giác ngộ thì Huệ Khả thấy Tâm như thế nào? Có khác cái Tâm cũ hay vẫn là cục thịt trong đầu? Huệ Khả đã nuôi Tâm như thế nào để trở thành Nhị Tổ, kế thừa Đạt Ma, lãnh đạo Thiền Trung Hoa?

Rõ ràng "nuôi Tâm" không thể nào như nuôi heo, trồng cây... để qua một mùa là có kết quả. Nhà Phật luyện Tâm để giác ngộ (cái Thấy). Mở Huệ nhãn (giác ngộ, không phải là có con mắt thứ 3 giữa 2 chân mày là hiểu lầm tai hại) là cái nhìn bằng Tâm thuật (hiểu tức thì không qua dẫn chứng, mắt thấy, tai nghe). Luyện Tâm giống như nhà nghiên cứu, có mục đích, kế hoạch, phương pháp, kỷ luật để tập trung năng lực làm việc liên tục trong thời gian vô hạn. Khác biệt là đạt kết quả (Thiên tài) không phải để nổi tiếng, làm giàu hay chinh phục thế giới mà để cứu nhân, độ thế. Nhiều người lầm tưởng sinh con thông minh, là thiên tài thì sẽ là ABC mà quên đi mặt đạo đức. Tại sao Tâm có Thiện có Ác? Có ai chứng minh "Nhân chi sơ Tính bản thiện"? Hay chỉ vì Khổng tử nói vậy?

Nuôi Tâm Sinh Thiên Tài (P2)

Trần Công Lân

Tháng 7 năm 2024 (Việt lịch 4903)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/08/15/nuoi-tam-sinh-thien-tai-p1/

 

 

 

Nuôi Tâm Sinh Thiên Tài (P2)

Hay Tâm chỉ là ký ức tồn trữ những dữ kiện trong đời sống mà chúng ta trải qua từ lúc sinh ra cho tới khi chết? Tâm chỉ tồn tại trong Thân hay ngoài Thân? Khi ngủ mơ (mê) thì Tâm ở trong hay ngoài Thân? Cái "thấy", cái "sợ" trong giấc mơ giống như những gì chúng ta thấy và sợ trong đời sống? Vậy chúng sẽ ảnh hưởng tới đời sống bạn ra sao sau cơn mê? Cơn mê trong Tâm (lúc ngủ) có ích lợi gì?

Muốn hiểu Tâm phải hiểu tiến trình Tâm ghi nhận tin tức từ bên ngoài vào Tâm vì Tâm không phải Óc (vật chất) mà là tinh thần. Nếu Tâm con nít như tờ giấy trắng thì ai "viết" những gì vào Tâm chúng để trở thành Thiện, Ác?

Còn những đứa trẻ nhớ về kiếp trước có phải Thiên tài hay không? Những Thiên tài (hay Thần đồng) về âm nhạc không phải chỉ là trí nhớ mà còn là cảm xúc, đam mê. Khoa học ngày nay nghiên cứu về não bộ con người để hy vọng làm sống lại não bộ các thiên tài đã qua đời hay tái chế biến (clone). Nhưng tái tạo não bộ chỉ là vật chất, còn tinh thần thì làm sao mà tái tạo (copy)?

Vậy thì chỉ có "nuôi" Tâm hay tu luyện, tu dưỡng. Cũng theo Phật học thì luyện Tâm thì Tâm phải tịnh. Môn phái Tịnh Độ Tông chuyên về Tịnh Tâm mà có mấy ai thành công? Hay thành công rồi im luôn vì không muốn liên hệ đến những chuyện đời? Mặt khác nếu Tâm phát Tánh (tính, tướng) thì khi đã có Tánh (Thiện, Ác) thì luyện (nuôi) Tâm có thay đổi Tánh hay không? Vấn đề là thời gian sẽ đòi hỏi bao lâu? 100 năm hay 1000 năm? Người xưa nói tu Tiên có thể sống ngàn năm? Vậy có thể làm Thiên tài được không? Sống lâu để làm gì nếu không luyện Tâm?

Trở lại tiến trình ghi nhận tin tức bên ngoài vào Tâm mà Phật học gọi là Thức (Duy Thức). Nhưng nếu Thức ghi nhận tin tức bên ngoài vào Tâm đều giống nhau thì tại sao Tâm ông A thích và lưu giữ nhưng Tâm bà B không thích và không giữ lại trong Tâm? Phải chăng vì Tâm khởi (phát sinh) yêu, ghét? Trong khi nhiệm vụ của Thức chỉ là chuyển tin tức từ A (căn) đến B (cảnh). Vì có con mắt nên có cảnh để nhìn. Vậy thì cũng theo Phật học, Tâm của trẻ vì vô minh nên theo Thập nhị nhân duyên (Vô minh duyên ra Hành, Hành duyên ra Thức, Thức duyên ra Danh sắc, Danh sắc duyên ra Lục nhập, Lục nhập duyên ra Xúc, xúc duyên ra Thọ, Thọ duyên ra Ái, Ái duyên ra Thủ, Thủ duyên ra Hữu, Hữu duyên ra Sinh, Sinh duyên ra lão tử). Trong tiến trình đó, đứa trẻ sẽ nuôi Tâm từ lúc nào?

Cha mẹ nào chẳng muốn con là Thiên tài? Tại Mỹ, cha mẹ mua cho con đủ thứ đồ chơi, hy vọng sẽ kích thích Thiên tài nổi dậy từ trẻ. Khi đi học thì trẻ được khuyến khích một giấc "mơ" (dream) nhưng chẳng nói "mơ" cái gì và như thế nào là tốt xấu. Có lẽ các nhà xã hội, chính trị và kinh tế hy vọng thu hoạch một vài nhân tài là đủ cứu chuộc thế giới cho dù 99.99% còn lại sẽ đi vào hủy hoại với giấc mơ sai lầm.

Có ai hỏi tại sao Thiên tài "cha mẹ" (đã có) không nuôi dưỡng và phát triển Thiên tài "con"? Cũng giống như trong Thiền đạo, chỉ có vị thầy đắc đạo mới đủ tư cách xác nhận đệ tử đạt đạo (đắc đạo). Vậy Thiên tài không phải muốn là được, nuôi là có. Bản chất (khi sinh ra: khí Tiên Thiên) là một mặt, mặt khác là sau khi sinh (khí Hậu Thiên) trong hoàn cảnh nào thì Tài năng được khai triển. Thử hỏi nếu thức ăn X hay phương pháp Y sẽ tạo ra Thiên tài thì Thiên tài sẽ đứng đầy chợ trời?

Mượn Phật học để giải thích: Thái tử Tất Đạt Đa có tiền kiếp đã là Phật (Tiên Thiên) nhưng tuy sinh ra trong hoàng cung, ông cũng phải trải qua khổ cực để tìm đường tu (Hậu Thiên) và đắc đạo. Đó là cuộc tranh đấu giữa Nghiệp (đường dài) và Mệnh (chu kỳ, giai đoạn). Nếu bạn Không chấp nhận "Nghiệp" hay "Mệnh" thì khó mà giải thích hay hiểu Thiên tài là gì, từ đâu đến, sẽ làm gì? Hãy tìm lại người nói câu "nuôi Tâm sinh Thiên tài" là Lý Đông A. Đọc Lý Đông A chúng ta hiểu gì? Ngoài phần ông biết mà chúng ta suy nghĩ cả đời cũng không biết thì phần mà ông viết ra chúng ta có thể hiểu là những gì?

Nhưng Thiên tài mà không gặp thời thì cũng chẳng làm được gì vì thiếu Nhân tài phụ lực. Vậy nếu phải chọn giữa một Thiên tài và nhiều Nhân tài để thay đổi xã hội thì bạn chọn cách nào? Nuôi Thiên tài đã không biết thì chỉ còn cách đào tạo Nhân tài. Lấy Lượng thay Phẩm? Cho dù biết rằng "Binh hồ tinh bất quý hồ đa". Vậy thì cuối cùng không biết "nuôi Tâm sinh Thiên tài, nuôi Óc sinh Nhân tài" thì cũng đừng “nuôi Thân sinh Nô tài". Làm người khó thay.

Nhìn góc cạnh khác, nếu "nuôi Tâm" được thì bạn muốn là Thiên tài như thế nào?

Thiên tài

Phải chăng thiên tài là biết hết mọi chuyện? Làm được mọi việc? Giá trị của thiên tài là gì?

Thiên tài không phải chỉ đánh giá ở sự thành công về tài mà còn về đức, ngay cả sự thất bại cũng có giá trị vì những đóng góp siêu việt, ảnh hưởng nhân loại về lâu dài.

Thiên tài không phải là Thần, Thánh có phép màu, làm đủ mọi chuyện theo ý dân. Thiên tài có giới hạn trong phạm vi đóng góp một vài lãnh vực (đã được nuôi để thực hiện cũng từ do Nghiệp và Mệnh) và vì nuôi (tu dưỡng) quá khó nên Thật thì ít mà Giả thì nhiều. Nói theo kinh tế thì vì nhu cầu đòi hỏi từ đa số dân mong có Thiên tài xuất hiện cứu độ chúng sinh nên kẻ thiếu đạo đức nhảy ra cung cấp Thiên tài giả như chúng ta thấy trong cộng đồng Việt Nam (Nhân điện, Thanh Hải, lãnh đạo chống CSVN ...). Điều kiện nào là cần và đủ để được gọi là Thiên tài? Tất nhiên là có Tài năng thuộc một (hay nhiều) lãnh vực, có mục đích tốt cho con người về lâu dài. Đó là Tài còn về Đức? Có những Thiên tài đóng góp rất nhiều cho nhân loại nhưng đời sống cá nhân rất bê bối. Bạn có đồng ý sự đổi chác để có Thiên tài dù phải chấp nhận cuộc sống cá nhân vô luân, trụy lạc, bê bối... của Thiên tài? Đó là "cần".

Vậy đâu là (đủ để gọi) Thiên tài thật sự? Hãy nhìn lại lịch sử loài người từ Đông sang Tây với những vĩ nhân được các quốc gia, dân tộc tôn sùng qua nhiều thế kỷ nhưng thực sự đối với bên ngoài (dân tộc, quốc gia khác) thì sao?

Thí dụ như Thành Cát Tư Hãn có thể nào là Thiên tài với các cuộc chinh chiến tư Đông sang Tây? Hay như Mao, Khổng Tử ... đối với dân Trung Hoa có thể là Thiên tài nhưng đối với các dân tộc lân bang, thế giới thì không đạt. Ngược lại, Lão Tử được biết đến qua Đạo Đức Kinh nhưng cả thế giới kim cổ phải chấp nhận là Thiên tài. Cũng như Leonardo Da Vinci là người có tài năng về nhiều mặt mà những đóng góp của ông sau nhiều thế kỷ vẫn được tôn trọng.

Kết

Vậy chuyên "nuôi Tâm sinh Thiên tài" chỉ là lời nhắn nhủ của tiền nhân để đừng "nuôi Thân sinh nô tài", chỉ cần cố gắng "nuôi Óc sinh nhân tài" là tốt lắm rồi. Cứ nhìn gương Chúa, Phật cứu nhân độ thế thuộc hàng Thiên tài thế nhưng có tín đồ nào "nuôi Tâm" để theo đâu? Nuôi là ý chí tự chọn để theo đuổi chứ không phải có người khác nuôi (giúp). Cứ nhìn sư Minh Tuệ (mới bắt đầu) đang nuôi Tâm đó mà thiên hạ đã chạy theo để được gì? Sao không sống như ông ta đang làm mà theo quỳ lạy làm gì? Nếu ông ta làm 5 điều cùng một lúc (hạnh đầu đà) thì bạn thử theo 1 điều thôi xem sao. Giả sử nuôi Tâm có 8 bậc thì hãy thử 101 trước đi.

Trần Công Lân

Tháng 7 năm 2024 (Việt lịch 4903)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/08/15/nuoi-tam-sinh-thien-tai-p2/?preview_id=5642&preview_nonce=66cfb65fb7&_thumbnail_id=-1

 

 

 

Con Người hay Cơ Chế

Tựa đề bài viết này đã được đăng trên nganlau.com vào tháng 7 năm 2015. Vẫn với tựa đề trên, bài viết này nhìn vấn đề ở góc nhìn của người đấu tranh cho một Việt Nam Nhân Chủ, Tự Do và Phú Cường ở tương lai.

Những người đấu tranh cho một Việt Nam tương lai, hình như chưa bao giờ đặt ra vấn đề này. Chủ đề này rất là quan trọng bởi nếu không nhìn ra được vấn đề thì những người đấu tranh cho một Việt Nam tương lai có thể trở thành một “độc tài” kiểu mới dưới nhãn hiệu dân chủ mà nước Mỹ đã chứng kiến vào cuối năm 2020 với cao điểm của sự kiện 6 tháng 1 năm 2021.

Con Người của lịch sử

Trước hết phải nhìn vấn đề Con Người bởi Con Người đưa ra cơ chế. Mà nếu nhìn Con Người thì phải nhìn vào lịch sử của đất nước từ xa xưa cho đến nay.

Dưới các triều đại của Trần, Lê, Lý; Việt tộc đã có một thời hưng thịnh, an cư lạc nghiệp. Tại sao thế? Tại sao dưới một chế độ phong kiến, Việt tộc có một thời an cư lạc nghiệp nhưng đồng thời cũng dưới chế độ phong kiến đó, Việt tộc bị chiến tranh (Trịnh-Nguyễn phân tranh) và sự tàn bạo của các vua đối với quan thần cũng như dân chúng?

Nhìn lịch sử rõ hơn một tí thì các vua mang lại an cư lạc nghiệp cho người dân là những người có trái tim nhân bản, đặt lợi ích của đất nước, dân tộc, và người dân lên trên hết. Vua tôn trọng dân cho dù trong chiến tranh, vua hỏi ý kiến của dân là nên hòa hay nên đánh qua Hội Nghị Diên Hồng mà vua Trần Thánh Tông là thí dụ điển hình. Ai bảo thời phong kiến không có dân chủ? Phải chăng Việt tộc đã thực thi dân chủ ngay từ thời của vua chúa mà vì ngoại vọng nên chúng ta không nhìn thấy?

Nói thế không có nghĩa là Việt tộc không gặp thời đen tối của chế độ phong kiến. Khi vua ham chơi để quan thần lộng hành thì người dân sẽ chịu nhiều khổ đau. Mà vua ham chơi tức là vua chỉ nghĩ đến cái tôi, cái dục vọng mà không quan tâm đến đất nước, đến đời sống của người dân. Đó là lý do tại sao khi các triều đại đầu tiên, vua-quan đều quan tâm đến an cư lạc nghiệp cho người dân. Nhưng đến cuối các triều đại thì các vua-quan đều bị hủ hóa.

Con Người nếu không đặt chuyện tu dưỡng bản thân là ưu tiên trong cuộc sống thì sớm hay muộn, cá nhân đó sẽ bị tiền, quyền, dâm, danh làm họ hư hỏng. Đó là lý do giải thích tại sao các triều đại của cuối đời Lý, Lê, Trần -- có những vị vua và quan thần tồi bại để tạo ra loạn lạc, tranh giành quyền lực với nhau, làm cuộc sống của dân nhiều khốn khổ.

Con Người, đặc biệt người lãnh đạo, đóng vị trí rất quan trọng trong việc đem lại an cư lạc nghiệp cho tập thể người dân sống trong xã hội. Con Người Nhân Bản sẽ tạo ra những chính sách để phục vụ xã hội trong khi Con Người thiếu Nhân Bản sẽ dùng những chính sách để lừa người dân với mục đích chính là phục vụ quyền lợi bản thân (quyền và tiền).

Cơ Chế

Có người quan niệm rằng sự lạm quyền của người lãnh đạo là do cơ chế. Từ lý do đó, nhiều cơ chế được lập ra trong quá khứ để chuyện lạm quyền, độc tài không xảy ra.

Hãy nhìn về cơ chế, đặc biệt cơ chế tam quyền phân lập của Mỹ được xem là kiểu mẫu của thời đại, một kiểu mẫu mới nhất so với cơ chế của khối Âu Châu.

Trên lý thuyết thì tam quyền phân lập của Mỹ nghe rất hay nhưng sau trên 200 năm thử nghiệm, cơ chế đó đã không kiểm soát được tình trạng đảng tranh, tình trạng không ai kiểm soát được ai bởi tinh thần đảng tranh của Mỹ đang ở tột đỉnh mà không thể nào thay đổi để trở về hiện trạng của thời thành lập nước Mỹ.

Thời thành lập nước Mỹ, những người dựng lên bản hiến pháp là những người có lòng tự trọng, tuy có sự khác biệt về ý thức hệ nhưng sẵn sàng gạt bỏ sự khác biệt để tạo ra một hiến pháp khả thi, áp dụng vào đất nước mới hình thành. Hiến pháp đó tuy có nhiều lổ hổng nhưng được bồi dưỡng bằng những thay đổi để đáp lại nguyện vọng của người dân. Đấy là cái thời tinh thần đảng tranh không cao lắm.

Ở cái thời điểm của thế kỷ 21, tinh thần đảng tranh với khẩu hiệu “còn đảng, còn mình” qua nhản hiệu dân chủ, hai đảng tìm cách chống nhau và dùng tâm lý để cử tri thay phiên nhau chọn hai đảng vào vị trí lãnh đạo từ khi đảng tranh được hình thành trong lịch sử của Mỹ.

Cơ quan tư pháp với tòa án Tối Cao Pháp Viện cũng đã vướng vào đảng tranh, xét xử lại những vụ án trước đó, thay vì tôn trọng án lịnh đã xử thì Tối Cao Pháp Viện phá án lịnh đó với lý do đơn giản là quyền của tiểu bang thay vì là quyền của người phụ nữ mà vụ phá thai là thí dụ điển hình.

Những người trong Tối Cao Pháp Viện không có một tổ chức nào, một cơ quan nào có thể kiểm soát những bản án sai trái của họ. Họ vi phạm đạo đức nhưng không có cơ quan nào kiểm soát ngoại trừ họ tự kiểm soát. Làm sao có công bằng khi tự chính cơ quan, có quyền cao nhất trong tư pháp, lại tự kiểm soát được mình? Mong chờ Quốc Hội đàn hạch (impeachment) các vị thẩm phán ở Tối Cao Pháp Viện hiện giờ là chuyện không tưởng bởi tinh thần đảng tranh.

Khi đắc cử các vị lãnh đạo tuyên thệ bảo vệ hiến pháp; thế nhưng ngày 6 tháng 1 năm 2021, những người bạo loạn tấn công vào Quốc Hội hơn hai tiếng đồng hồ, vị tổng thống tại nhiệm lúc đó, ông Trump, hoàn toàn im lặng không làm gì trước tình trạng tính mạng các dân biểu ở hai viện có thể bị nguy hiểm trước đám bạo loạn. Đây là thái độ ăn không được phá cho hôi với mục đích làm cuộc “đảo chính” dưới danh nghĩa của dân chủ.

Cái gọi là tam quyền phân lập đã được lợi dụng tối đa để phục vụ quyền lợi đảng thay vì quyền lợi của đất nước. Khi Con Người hư hỏng, vì mình, vì đảng mình thì không có một cơ chế nào có thể cản trở những điều mà họ muốn làm để thực hiện tham vọng của chính họ, của đảng họ. Khi hành pháp, lập pháp và tư pháp toa rập để phá hoại đất nước thì người dân hoàn toàn bó tay, không làm được gì. Chưa kể ý thức chính trị của người dân cũng theo tinh thần đảng tranh tạo ra hình ảnh dân chủ Mỹ đang ở thời kỳ đi xuống.

Kết

Lịch sử của loài người chứng minh những thời đại mà cuộc sống Con Người được an cư lạc nghiệp không phải vì cơ chế mà vì những người lãnh đạo có trái tim Nhân Bản, tôn trọng sự thật, có Nhân Cách, Nhân Tri, Nhân Trí, Nhân Chủ. Nói nôm na là những người lãnh đạo có tu dưỡng bản thân để đạt trình độ Nhân ở mức độ giác ngộ và phục vụ quyền lợi của người dân và đất nước.

Tuy nhiên lịch sử loài người cho thấy Con Người sẽ bị hủ hóa cho nên cần phải có một cơ chế để giải quyết chuyện hủ hóa thay vì chấp nhận sự hủ hóa.

Cơ chế do Con Người tạo ra. Cơ chế đó dựa trên nền tảng nào cần phải xét lại bởi cái nền tảng mà thiếu gốc thì cái nền tảng đó giả tạo. Tự Do Dân Chủ chỉ là ngọn. Nhân Bản Cương Thường (những nhu cầu của đời sống người cần có mà không cần biết sống ở đâu, quốc gia nào, dân tộc nào) là cái gốc để cơ chế được hình thành từ đó. Cơ chế được hình thành để bảo đảm cái Nhân Bản Cương Thường. Cơ chế đó phải có nền tảng của Nhân Bản Cương Thường.

Muốn bảo đảm Nhân Bản Cương Thường, cơ chế cần phải có hệ thống tuyển chọn, thanh lọc những người lãnh đạo thiếu Nhân Cách, Nhân Tri, Nhân Trí, Nhân Đạo, Nhân Ái, Nhân Sinh. Lãnh đạo gian dối, xem thường luật pháp thì phải có một cơ chế để trừng phạt những hành động đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường. Một cá nhân làm ăn thương mại giỏi không có nghĩa là cá nhân đó có tài để lãnh đạo đất nước bởi lãnh đạo thương mại hoàn toàn khác với lãnh đạo đất nước.

Cơ chế phải được thay đổi theo từng thời gian bởi cuộc sống Con Người thay đổi cho nên cơ chế của 200 năm trước chưa chắc thích hợp với sự thay đổi của Con Người hôm nay. Cơ chế đó phải đáp ứng và bảo đảm Nhân Bản Cương Thường không phải chỉ ở một quốc gia mà ở nhiều quốc gia.

Một người Việt ở thời đại 1940 đã nói đến cơ chế Duy Dân và dưới cơ chế đó, mỗi cá nhân phải tự chính mình làm chủ lấy mình (Nhân Chủ) và tự do phải đặt trên cái nền tảng Nhân Chủ đó.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 6 năm 2024 (Việt lịch 4903)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/08/24/con-nguoi-hay-co-che-2/

 

 

 

 

 

 

Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2024

Cơ Chế Đan Quyền (P1)

 

Hiện nay chúng ta đang thấy sự suy thoái dân chủ của cơ chế Tam Quyền Phân Lập. Con người lập ra hiến pháp quy định cơ chế công quyền. Tuy có ý thức sửa đổi, bổ túc qua các tu chính án (amendment) nhưng theo thời đại, con người suy thoái. Hoặc là dân hay giới ưu tú (elite) lãnh đạo thay nhau củng cố nền dân chủ. Nhưng khi cả hai (dân, lãnh đạo) suy thoái thì cơ chế tam quyền phân lập trở thành tam quyền phân tán. Điển hình là sự chi phối của tôn giáo vào hệ thống tòa án. Một khi Tối Cao Pháp Viện (TCPV) dựa vào thành kiến tôn giáo để quyết định án lệ, rồi cũng chính TCPV phá án lệ của tiền nhân nhưng lại trả về các tiểu bang quyết định. Đây là hành động vô trách nhiệm của Tòa Liên Bang phán quyết để duy trì "hợp chủng quốc" thì lại trả về tiểu bang để mỗi tiểu bang có quyết định trái ngược nhau thì căn bản nhân quyền của hợp chủng quốc bị phá vỡ. Nhưng vì đặc quyền tại chức suốt đời (lifetime) nên dân không thể thay đổi cơ chế lẫn nhân sự.

Về mặt lập pháp, cơ chế lưỡng đảng tưởng chừng bền vững nhưng khi sắc dân thay đổi, các nhóm thiểu số dần dần trở thành đa số đe dọa sự chọn lựa ứng cử viên thì thành phần đa số (đang trở thành thiểu số) tìm cách duy trì thế lực chính trị bằng mọi thủ đoạn. Các khuynh hướng chính trị (kỳ thị, quá khích, cô lập) đã từng xuất hiện trước thế chiến II nay tái xuất để khủng bố các nhóm đối lập. Từ hạ tầng cơ sở, sự phân chia bản đồ bầu cử để chèn ép các nhóm thiểu số lan rộng dẫn đến xung đột, hỗn loạn, bất lực trong các cơ chế soạn luật từ tiểu bang đến liên bang. Các thế lực tôn giáo, kinh tế, ngoại bang âm thầm can thiệp vào các tiến trình bầu cử, soạn luật địa phương trên toàn quốc. Một mặt họ kêu gọi dân lo hưởng thụ, làm giàu, lơ là các sinh hoạt chính trị. Mặt khác lớp lãnh đạo lo củng cố địa vị, quyền lợi bản thân và phe đảng bằng cách o bế các nhà tài phiệt, tạo khó khăn cho dân nghèo có cơ hội bỏ phiếu thì nền dân chủ tất phải suy thoái. Khi người dân chạy theo kẻ mỵ dân, thiếu đạo đức, trách nhiệm thì sẽ nhắm mắt chọn kẻ mạnh, hứa hẹn đem lại tương lai tốt đẹp thì đó là con đường dẫn đến độc tài.

Ung thối từ cấp quận, hạt, tiểu bang lên tới cấp liên bang; cũng như từ các nhà lập pháp đến hành pháp; và cuối cùng là tòa án. Khi nhân tài không có thì sự tranh thắng để cầm quyền trở thành đảng tranh với tất cả thủ đoạn đen tối, dơ bẩn, thiếu đạo đức. Người dân không còn quan tâm đến quyền lợi quốc gia mà sẵn sàng bỏ phiếu cho ứng cử viên hứa hẹn đúng nhu cầu cá nhân, phe nhóm. Ngay cả tầng lớp lãnh đạo tôn giáo cũng quên vai trò đạo đức để ủng hộ ứng viên mất tư cách miễn là giáo điều được đề cao.

Sự tranh luận về chính kiến không còn nữa khi nói láo trở một sự thật khác (alternative truth) và ngụy danh như là "tự do ngôn luận". Cũng như thủ thuật tung tin giả, chụp mũ, vu cáo bất kể bằng chứng tới mức độ cuồng tín, quá khích, đe dọa bạo động bất chấp hình phạt vì hệ thống tòa án bị ngộp bởi các vụ kiện, kháng cáo, điều tra kéo dài. Đó là chưa kể sự phá hoại của kẻ thù từ các quốc gia độc tài. Tất cả phát sinh từ hiến pháp thiết lập cơ cấu chính quyền không cân bằng. Tuy nói là do dân, vì dân, bởi dân nhưng đã giới hạn dân quyền qua bầu cử. Sau khi dân bỏ lá phiếu vào thùng phiếu là hết quyền. Tu chính án đầu tiên 1791 xác nhận quyền "tự do ngôn luận, tự do báo chí, tụ họp và tín ngưỡng" nhưng chưa phải là Nhân quyền vì chế độ nô lệ vẫn còn tồn tại. Và sự bạc đãi, đàn áp, bất công với người di dân, dân thiểu số vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Nhân quyền được Liên Hiệp Quốc xác nhận 1948 nhưng hàng rào đã có từ mỗi quốc gia và Liên Hiệp Quốc không có lực để ép các nước tôn trọng nhân quyền. Khi quyền làm người bị bóp méo thì dân là tập hợp của người sẽ xây dựng xã hội, quốc gia như thế nào? (học thuyết bản vị).

Như vậy chúng ta thấy nền dân chủ Tây phương xây dựng trên một nền tảng từ trên xuống. Giai cấp ưu tú của xã hội sáng tạo "dân chủ" như trường hợp cách mạng Pháp 1789. Khi nền quân chủ thối nát, dân nghèo bất mãn kết hợp với giới trí thức nổi loạn lật đổ vương quyền nhưng cơ chế dân chủ chưa thành hình và xung đột xảy ra giữa các nhóm (đảng) tham dự cách mạng. Cuối cùng Nã Phá Luân đưa Pháp trở lại chế độ quân chủ. Đa số các cuộc cách mạng chỉ là lật đổ chế độ mà không chuẩn bị cái gì sẽ thay thế. Nếu thành công như cách mạng Mỹ 1775 thì sau đó nền dân chủ thành lập từng bước như một cuộc thí nghiệm với tinh thần thực nghiệm dựa trên Tâm Lý học hơn là Triết Học. Khi phân biệt giáo quyền với chính quyền, các nhà sáng lập nước Mỹ nghĩ rằng sẽ tránh được xung đột như đã xảy ra tại Âu Châu giữa Giáo hoàng và vua các nước. Tuy nhiên chính quyền vẫn phải dựa vào giáo hội về mặt đạo đức và xã hội. Khi chọn khẩu hiệu "tin vào thượng đế" hay tuyên thệ nhậm chức trên thánh kinh là yếu điểm của nền dân chủ Mỹ.

Phân quyền tưởng chừng canh chừng được nhau đã trở thành con quái vật bất khả xâm phạm khi tầng lớp lãnh đạo (đảng chính trị) từ từ đổi màu như loài tắc kè (chameleon) theo thời cuộc. Lớp người có đạo đức bị thay thế bởi kẻ mỵ dân chủ và lưỡng đảng thay vì đối lập thống nhất đã trở thành đảng tranh. Cùng với sự xuất hiện của mạng xã hội đưa con người vào mê trận của tin giả, trong khi giới truyền thống mất tiếng nói vì bị các nhà tài phiệt mua và khống chế. Sự tranh giành quyền lợi của các tập đoàn tư bản cấu kết với chính trị gia bất tài mà tham vọng đã tạo sự chia rẽ trong quần chúng để thủ lợi. Sự bổ nhiệm các thẩm phán Tối Cao Pháp Viện đã bị lũng đoạn khi các Thượng Nghị Sĩ không tôn trọng tiền lệ để chọn nhân tài. Cán cân công lý đã nghiêng ngả. Đã đến lúc phải tìm một cơ chế mới cho sinh hoạt dân chủ.

Khi tam quyền phân lập trở thành ba vua nắm quyền 3 mặt bất kể lẽ phải khi dựa vào tôn giáo để diễn dịch Hiến Pháp theo ý riêng. Trong lúc đó giới truyền thông (báo chí, truyền thanh, truyền hình) bị tràn ngập với tin giả từ mạng xã hội và mắc kẹt về tài chính (qua quảng cáo của các công ty, kỹ nghệ) dẫn đến sự lệ thuộc vào các tập đoàn tư bản khiến tự do báo chí trở thành công cụ của giới tư bản đè bẹp tiếng nói từ người dân. Sự tranh luận, thảo luận, lý luận để tìm sự thật không còn nữa khi chính giới lãnh đạo chính trị các cấp dựa vào tin giả để biện minh, lấp liếm sự thật. Phê bình là ranh giới của cương thường (trật tự) để bảo vệ sinh hoạt dân chủ vì hỗn loạn thì nền dân chủ sẽ bị tiêu diệt. Tâm lý học đã được sử dụng tối đa để lôi kéo người dân chú ý mặt kinh tế trong khi sinh hoạt chính trị được giới lãnh đạo hứa hẹn thỏa mãn bất kỳ nhu cầu nào quan trọng với cử tri để lấy phiếu mà không hề có giải pháp cho quốc gia. Sự chia rẽ càng sâu đậm thì quyền lực của giai cấp lãnh đạo càng mạnh. Đó là lý do chúng ta cần Đan Quyền.

Đan Quyền là hệ thống xen kẽ giữa giữa lớp lãnh đạo và đáy tầng (quốc dân, công dân). Phác họa sơ đồ về Đan Quyền khá phức tạp, cho đến nay chưa có sơ đồ nào khả dĩ diễn tả sự liên hệ trong Đan Quyền. Sự trình bày qua bài viết còn khó khăn hơn tuy nhiên vẫn phải cố gắng.

Hệ thống Đan Quyền thể hiện qua Cơ Năng Hiến Pháp, có thể thay đổi 10, 30 năm và được tu chỉnh với nhiều thành phần tham dự, kiểm soát lẫn nhau, không có tuyệt đối ưu thế hay tại vị suốt đời. Các bộ phận, viện có lãnh đạo do Quốc Trưởng chọn và Trung Tâm Hội Nghị (TTHN) phê chuẩn. Các viện, bộ làm việc cho cả phía Quốc Trưởng (lãnh đạo) lẫn Trung Tâm Hội Nghị (dân). Phần hành chính độc lập (cung cấp dịch vụ) với cả Quốc Trưởng lẫn Trung Tâm Hội Nghị.

Cơ Chế Đan Quyền (P2)

Trần Công Lân

Tháng 5 năm 2024 (Việt lịch 4903)

 

Cơ Chế Đan Quyền (P2)

 

Đan quyền chia chính quyền làm 4 phần                                                                                                         

-Giáp (Chính trị tổng cơ)

 

A.Tối cao quốc thể (Tổng Thống hay Quốc Trưởng =T1)

-do Quốc Dân hội nghị chọn = QD1.

-Kiểm soát bởi Phê Phán viện = PP1 và Kê Sát Viện= KS1.

 

B. Tối cao lập pháp (Quốc Hội =D1):

-Do Quốc Dân đoàn tuyển công dân tầng cử Trung Tâm Hội Nghị = QD1

-Phê chuẩn T1, bộ trưởng

-Tổ chức Quốc Dân đoàn (xã, hạt, huyện, tỉnh)

-Tham dự & tu chỉnh kế hoạch quốc gia.

-Phê chuẩn luật do Lập Pháp Viện đề ra.

 

C.Phê Phán Công Đường

-Do D1+ KS1

-Kiểm soát Trung Tâm Hội Nghị ,QD1 & T1

-Đề nghị tu chính Hiến Pháp nhưng không quyết định

 

D. Chính trị phù bật

-Chỉnh lý cơ +T1

-Tham quân cơ + T1

 

-Ất (Hành chính tổng cơ)  

 

A. Nghiên Cứu Bộ:

-Nghiên Cứu Viện (tự tuyển)

-Lập Pháp Viện  (T1 + D1)

 

B.Chấp Hành Bộ:

-Hành Chính Viện (T1 +D1)

-Quan Chính Viện (T1 chọn)

 

C. Khảo hạch bộ

-Tư Pháp Viện (Dân-Quân-Hình luật)

-Kê Sát Viện (+QD1)

 

-Bính (Hành chính phụ cơ)

 

A.Khu vực quốc phòng

 

B.Tỉnh: tỉnh trưởng+T1

-Trung Tâm Hội Nghị (tỉnh) tham chính.

 

C.Huyện:

-Trung Tâm Hội Nghị (Huyện) nắm quyền

-Dân cử Huyện trưởng+ T1

 

D.Hạt

-Trung Tâm Hội Nghị (Hạt) nắm quyền

-Huyện trưởng cử Hạt trưởng+ T1

 

E.Xã

-Trung Tâm Hội Nghị (Xã) nắm quyền

-Xã trưởng do dân cử, Huyện trưởng giám sát+ T1

-Đinh (Chính trị nguyên cơ)

 

-Công dân đoàn tổ chức Trung Tâm Hội Nghị hành xử quyền Lập Pháp.

 

-Các Trung Tâm Hội Nghị chịu mệnh từ Công Dân đoàn.

 

-Quốc Dân Trung Tâm Hội Nghị là toàn quốc dân.

 

-Xã chính dân đoàn là ý chí & quyết nghị sau cùng việc nước, quốc phòng.

 

-Quốc dân Trung Tâm Hội Nghị soạn thảo, Quốc dân Công đoàn quyết định thi hành.

 

Nhìn vào tổ chức của Đan Quyền, chúng ta thấy có 4 cột trụ: Giáp-Ất-Bính-Đinh. Tương tự như hệ thống chính trị Tây phương: Giáp (Chính Trị tổng cơ) là hoạt động có tính chính trị. Trong khi Ất (Hành Chính tổng cơ) là những bộ phận lo về hành chính, chuyên môn mà nhân sự do T1 (tổng thống, quốc trưởng) chọn với sự chấp nhận, phê chuẩn của D1 (quốc dân Trung Tâm Hội Nghị). Sự khác biệt là D1 phục vụ cho cả hai phía giới lãnh đạo chính trị (đảng chính trị) và D1 (các tầng lớp Trung Tâm Hội Nghị các cấp do dân tham dự). Như vậy kiến thức chuyên môn không còn là độc quyền của giới ưu tú để áp đảo dân đen. Cả T1 và D1 đều tham dự từng bước và vì thế mà gọi là Đan quyền.

Đồng thời sự hiện diện của Phê Phán Công Đường (như là bộ phận kiểm soát Chính Trị Tổng Cơ cũng như những án lệnh được Tối Cao Pháp Viện bên Tư Pháp Viện phán xét nhưng sai trái cần phải nhìn lại) do dân chọn được thay đổi nhân sự thường xuyên, kiểm soát cả T1 lẫn D1 và luật pháp. Phê Phán Công Đường có trách nhiệm như toà án (phán xét, phê bình) lẫn với giới truyền thông để phân xử và minh bạch mọi sinh hoạt trong nước. Bính là Hành Chính phụ cơ rải theo trung ương đến địa phương. Khu vực quốc phòng để riêng. Tỉnh và huyện do T1 và D1 phối hợp: Tỉnh (huyện) trưởng do T1 chọn điều hành, Trung Tâm Hội Nghị nắm quyền (như Lập Pháp của Tây phương nhưng lại không làm luật mà bộ phận làm luật là Lập Pháp Viện, từ bên Hành Chính Tổng Cơ). Nhưng cấp Hạt lại do Huyện trưởng đề cử qua Trung Tâm Hội Nghị địa phương. Đến cấp Xã thì lại do dân cử (phải chăng đây là lý do "đáy tầng"?).

Căn nguyên chính trị là "Đinh". Người dân từ Xã tham dự Xã chính dân đoàn. Nếu hiểu "Quốc dân là mọi người. Công dân là những người có tiêu chuẩn tham gia chính trị" thì mọi người dân đều tham gia việc nước (cá nhân có quyết tâm là chuyện khác). Cấp cao nhất là Quốc Dân Trung Tâm Hội Nghị làm việc ngang hàng với Quốc Trưởng. Quốc Trưởng có thể là đảng viên đảng ABC nhưng dân thì không. Quy chế thay đổi và tham dự Trung Tâm Hội Nghị không cho phép dân (nếu là đảng viên) có thể thao túng các quyết định của Trung Tâm Hội Nghị từ cấp dưới (xã) lên trên (toàn quốc). Lập Pháp Viện cũng là bộ phận làm luật do T1 chỉ đạo và D1 phê chuẩn tránh được tình trạng Quốc Hội làm luật trói tay Hành Pháp hay Hành Pháp yêu cầu mà Quốc Hội không làm. Tương tự như vậy, Hành Chính Viện phụ trách các nhu cầu pháp luật, chính sách quốc gia, không lệ thuộc T1 hay D1. Các bộ phận chính quyền theo Đan Quyền không bị áp lực chính trị của đảng cầm quyền chi phối cho dù là Hành Pháp hay Lập Pháp.

Như chúng ta thấy "Chính Trị Tổng Cơ" (lãnh đạo) là chính nhưng kèm theo là "Chính Trị Nguyên Cơ" (nhân dân). "Hành Chính Tổng Cơ" (trung ương) là các bộ phận chuyên môn được kèm theo bởi "Hành Chính Phụ Cơ" (các cấp địa phương). Nguyên tắc "tung hợp" được áp dụng để từng bước sinh hoạt của chính quyền các cấp, lãnh vực đều có sự tham dự của giới lãnh đạo, chuyên gia và nhân dân.

Khuyết điểm của Đan Quyền vẫn là dân. Mọi người dân có chấp nhận Duy Nhân Cương Thường (Nhân Bản Cương Thường) hay không? Người dân có tích cực tham gia từ cấp xã lên tới quận, hạt, huyện, tỉnh với nhu cầu tham dự sinh hoạt nghị hội các cấp thường xuyên -- có thể là trở ngại cho sinh kế cá nhân, gia đình. Công dân có chấp nhận nền giáo dưỡng nhân bản để đào tạo các nhân vật lãnh đạo có tu dưỡng và điều hành quốc gia theo hướng "Bình Sản Kinh Tế"

Đan quyền phối hợp sự kiểm soát, kềm chế lẫn nhau giữa Quốc Trưởng, Trung Tâm Hội Nghị và Phê Phán Công Đường (cũng do từ Công Dân đoàn cử ra). Quốc trưởng bổ nhiệm các Bộ, viện trưởng (nội các) nhưng do Trung Tâm Hội Nghị đồng ý. Cả quốc trưởng lẫn Trung Tâm Hội Nghị chịu sự phê phán từ Phê Phán Công Đường. Phê Phán Công Đường thành viên do Trung Tâm Hội Nghị và Kê Sát Viện chủ tuyển. Đan quyền đặt Lập Pháp Viện (làm luật) là cơ quan chuyên môn (làm luật) và được Trung Tâm Hội Nghị phê chuẩn. Do đó các "đại diện nhân dân" trong Trung Tâm Hội Nghị (cho dù thay đổi thường xuyên) cũng không thể ra luật với lỗ hổng (loophole) hay có lợi cho các nhóm vận động (lobby). Và các nhà "lập pháp" (quốc hội) không có chuyện trì hoãn việc soạn, ban hành luật khi cần thiết hay uy hiếp Hành Pháp về ngân sách vì Phê Phán Công Đường kiểm soát các đạo luật. Soạn luật với kẽ hở (loophole) và cập nhật hóa các đạo luật lỗi thời là hai khuyết điểm của Quốc Hội trong hệ thống tam quyền. Lơ là việc soạn luật để chạy theo lợi ích cá nhân (xuất ngoại, vận động tài chính ...) là sự lạm quyền mà cử tri bất lực nếu muốn ngăn chận. Lập pháp viện của đan quyền trở thành nhiệm vụ hành chính: làm vì nhu cầu (giữa T1 đề nghị và D1 chấp thuận với sự phê bình của Phê Phán Công Đường) không vì phe nhóm (đảng).

Trong khi đó Tư Pháp Viện (tòa án) coi cả dân, quân và hình luật, độc lập với Quốc Trưởng. Kê Sát Viện (thanh tra) làm việc với Trung Tâm Hội Nghị và độc lập với Quốc Trưởng. Kê Sát Viện làm việc giám sát, thẩm định, cũng như luận tội về luật pháp, các nhân viên ở các cấp hầu tránh sự lũng đoạn trên mặt nhân sự cũng như chính sách.  Tuy rằng Quốc Trưởng chung quyết các án Tư Pháp, Kê Sát Viện nhưng nếu Quốc Trưởng không đồng ý điểm ABC mà Phê Phán Công Đường không bác bỏ và Trung Tâm Hội Nghị vẫn chấp nhận thì mới chứng tỏ "dân"làm chủ (có thực quyền quyết định). Như vậy cơ quan thi hành (giám sát, xử) luật xét cả dân sự lẫn quân sự sẽ tránh được sự kiện tòa án quân sự xử khác tòa dân sự vì XYZ (khi nhân quyền như nhau). Sức mạnh quân đội vẫn do dân kiểm soát (tránh việc Quốc Trưởng dùng quân đội đảo chính chính quyền dân cử). Tư pháp trong Đan Quyền tránh được xung đột giữa Tòa và bộ Tư Pháp (hành pháp). Khi sự phê bình (Phê Phán Công Đường) đến từ dân (những tiếng nói từ bên ngoài để Phê Phán Công Đường xét lại bản án hoặc chính sách của quốc gia). Cơ quan thanh tra (Kê Sát Viện) và xử án (Tư Pháp Viện) làm việc với dân (Trung Tâm Hội Nghị) là sự phối hợp giữa ý dân và chuyên gia. Sự giám sát (thanh tra) trở thành bộ phận riêng không còn là thuộc từng bộ. Như vậy tránh được tình trạng vị Bộ Trưởng áp chế việc thanh tra trong nội bộ để che giấu các hành vi phạm pháp. Khi Tư Pháp Viện hoạt động như bộ phận hành chính độc lập thì Hành Pháp (T1) không can thiệp được. Sự kiện bộ quốc phòng tiêu xài ngân sách không có hồ sơ (trường hợp quân đội Mỹ tại Iraq) mà Quốc Hội truy xét không có kết quả. Trong Đan Quyền thì Kê Sát Viện và Trung Tâm Hội Nghị có khả năng ngăn chận những xung đột đảng phái, hướng chính trị trong chính quyền thường làm tê liệt chính quyền, cản trở việc thi hành luật pháp. Khi thành viên Trung Tâm Hội Nghị có nhiệm kỳ giới hạn (2 lần tiên nhiệm, mỗi nhiệm kỳ là 4 năm, tổng cộng ba nhiệm kỳ là 12 năm) bị kiểm soát bởi Phê Phán Công Đường, không dính vào doanh nghiệp, không làm luật mà chỉ được phê chuẩn sẽ tránh bị mua chuộc bởi bên ngoài.

Bộ phận Quan Chính Viện để đưa ra những tiêu chuẩn tuyển chọn người vào vị trí lãnh đạo quốc gia, phải có đủ những tiêu chuẩn tài, đức chứ không như cơ chế tam quyền của Mỹ không đặt nặng tài và đức để rồi khi được bầu vào cơ chế thì mặc sức phá tan nền dân chủ đã từng có trên 200 năm.

Bất kỳ cá nhân nào nắm giữ quyền hành (càng cao và càng lâu) dễ có khuynh hướng lạm quyền. Bị hủ hóa (biến chất) lâu hay mau tùy trình độ tu dưỡng của mỗi cá nhân. Mục đích của Đan Quyền là kiểm soát từng bước thi hành quyền hạn mọi lãnh vực từ người chủ xướng (lãnh đạo) đến dân (Trung Tâm Hội Nghị) qua giới chuyên gia (các viện, bộ) dưới sự kiểm soát, phê bình (Phê Phán Công Đường và Kê Sát Viện). Khi "quyền" bị giới hạn thì "lợi" cũng giảm theo. Có như vậy tài nguyên thiên nhiên không bị khai thác quá đáng, phí phạm và gây ô nhiễm. Sự phát triển có thể chậm nhưng so sánh giữa "nhanh" để rồi di hại về sau khi các công ty khai thác kiếm lời rồi bỏ chạy để lại gánh nặng cho địa phương và chính quyền. Không "lợi" quá đáng thì kẻ xấu không nhảy vào chính quyền để lũng đoạn. Kinh tế thị trường không "tự do" để kiếm lời (thịnh vượng) và lũng đoạn chính quyền. Phải chăng đó là mục đích của Bình Sản Kinh Tế?

Một khi "quyền" (chính trị ) được kiểm soát bởi đáy tầng (người dân) thì "lợi" (kinh tế) sẽ như thế nào? Đó là mục đích của Bình Sản Kinh Tế. Để có thể chấp nhận Bình Sản Kinh Tế thì phải đi qua Tu Dưỡng, qua Sinh Mệnh Tâm Lý, Duy Nhân Cương Thường (Nhân Bản Cương Thường), Cơ Năng Hiến Pháp... và sẽ được thảo luận trong bài viết khác.

Trần Công Lân

Tháng 5 năm 2024 (Việt lịch 4903)

 

 

Cá Thể và Toàn Thể Đối Lập Thống Nhất (P1)

PBS: A brief history of future.

Đầu thế kỷ 21, khi nhân loại phát triển toàn cầu với các phương tiện khoa học kỹ thuật mới giúp con người di chuyển, truyền thông, trao đổi kinh tế... nhanh hơn; tưởng chừng sẽ cải thiện đời sống nhân loại tốt hơn nhưng cùng lúc trở ngại cũng phát sinh nhanh hơn, rộng hơn và phức tạp hơn. Tầng lớp trí thức ưu tư về tương lai nhân loại đã và đang tiến hành các phương thức giải quyết vấn đề đa diện và phức tạp mà chính họ cũng không biết sẽ tìm hiểu như thế nào. Tại Pháp, các nhóm người có trình độ kiến thức khác nhau đã họp thành Công Dân Nghị Hội (Citizen Convention) toàn quốc. Nếu so với Lý Đông A (cơ năng hiến pháp) thì Lý Đông A để nghị Quốc Dân Đại Hội (Quốc dân đoàn) và Công dân tầng chế độ (Trung Tâm Hội Nghị các cấp tỉnh, huyện, xã).

Tại Mỹ thì nhiều nơi, nhiều nhóm tụ họp các thành phần trong xã hội để trao đổi ý kiến, tìm hiểu nhau, giải quyết bế tắc  và hướng về tương lai. Tuy có mục đích tốt: đi tìm sự hòa đồng, thông cảm, hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng nhau, đối xử với lòng từ bi (compassion), bảo vệ thiên nhiên... nhưng đem mọi người quan tâm đến với nhau một cách tức thì (ad hoc) không dựa trên một khung sườn (framework) hay các nguyên tắc cần thiết thì dễ lạc đường vì quá rộng và mơ hồ. Trong khi các cá nhân tham dự cần được sắp xếp hợp lý để đến với nhau (thảo luận) có kết quả hơn. Khi các phức tạp của con người gặp sự phức tạp của hoàn cảnh, địa lý thiên nhiên, xã hội... thì sự đi tìm đầu mối giải quyết thật mông lung, mờ ảo. Gom mọi người đến với nhau trong cùng một không gian không có nghĩa là sự xung động sẽ đưa đến kết quả dưới bất kỳ hình thức nào. Đó là sự cầu may.

Nếu nói về nguồn gốc và hướng đi thì "phong trào" đi tìm "lịch sử tương lai" (trình bày bên trên) có vẻ giống như những gì Lý Đông A vạch ra cho thế hệ 2000s. Tuy rằng Lý Đông A không nhìn thấy tình trạng hiện nay của thế giới nhưng nền tảng căn bản Duy Dân mà Lý Đông A đưa ra đã dựa trên những nguyên tắc rất vững chắc, có liên hệ chặt chẽ, cân bằng với lý luận triết học theo từng bước qua các công thức (phương trình) cân bằng (đối lập, hỗ tương) mà chúng ta không thấy xuất hiện hay được nhắc tới trong "lịch sử tương lai".

Tuy rằng những người tham dự có nhắc tới những yếu tố tốt đẹp nhưng đó chỉ là ngọn không phải là gốc (là những nguyên tắc căn bản). Khi "thí nghiệm" về xã hội Mỹ (melting pot) gần 237 năm không dẫn đến hòa bình thế giới mà tạo thêm phức tạp xáo trộn hơn với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Khi tội ác tại Mỹ bị "chụp mũ" là bệnh tâm thần cho thấy giới trí thức Mỹ không muốn nhìn vào Tâm & Thân của con người để giải quyết xung đột giữa cá nhân và tập thể như là sự "đối lập thống nhất". Một mặt thả lỏng tự do cá nhân tối đa, mặt khác dùng áp lực xã hội (giàu có, thịnh vượng, sung túc...với nhanh, mạnh, khôn ngoan, mạo hiểm...) để thúc đẩy con người (trẻ) lao vào cuộc chạy đua mà không suy nghĩ về mục đích, hậu quả.

Khi “Cùng” đường để “Tắc biến”, các nhà tư tưởng (tương lai học) hy vọng phép lạ xảy ra bằng cách đem mọi người đến với nhau qua một hình thức sinh hoạt (convention, group discussion, camping) với hy vọng sẽ tìm ra giải pháp. Họ nghĩ rằng sự đe dọa của các hiểm họa trước mắt (thiên tai, chiến tranh, bệnh dịch) sẽ giúp mọi người quên khác biệt nhỏ để tìm giải pháp cho toàn bộ nhân loại. Lối giải quyết này giống như cho phép "tự do" sử dụng cần sa (marijuana) để giải trí (recreation): phải chăng vì không xác định được tác dụng xấu tốt của loại cây này nên (khoa học & chính trị gia) đồng ý thả cho dân xài (với lý do mơ hồ) để che giấu ý định của họ khi sự mạo hiểm của người dân sử dụng cần sa muôn mặt sẽ tình cờ khám phá ra tác dụng bí mật của loại cây này mà các viện bào chế thuốc khỏi mất công đầu tư tìm kiếm. Và đó là cách nhà giàu làm ra tiền qua thí nghiệm nơi người dân.

Lối giải quyết của Tây phương là thực tiễn, là có kết quả ngay và không muốn suy nghĩ lâu: xây nhà bằng máy in 3 chiều (3D printer) để giải quyết nạn khan hiếm nhà. Nhưng liên hệ "người-công việc-đất (môi trường)-di chuyển" gắn liền với nhau như một hỗn hợp phải cân bằng mới ra thành sản phẩm hữu dụng. Cũng như thực phẩm không thiếu nhưng sử dụng hoang phí. Nếu kẻ có tâm cứu chữa mối họa của nhân loại trong khi kẻ tham vẫn quyết tâm làm giàu đủ mọi cách kể cả phá hoại thiên nhiên.

Khi công thức căn bản "Nhiên-Nhân-Dân" không được tôn trọng thì tương lai nhân loại là gì? Khi chữ "Nhân" không được đặt hàng đầu mà lại dùng "Dân" để kêu gọi "thế giới hòa bình" thì sự kỳ thị, xung đột tất phải xảy ra. Lập lại những lời kêu gọi hòa bình, thông cảm của các nhà tu không đem lại tác dụng gì cả nếu trong từ mỗi cá nhân không có sự chuyển hóa. Mà muốn chuyển hóa con người thì phải chuyển hóa Tâm thức.

Tâm có "thức" (ghi nhận) mới tạo thành cá tính, cá nhân. Tiến trình ghi nhận "thức" (cái tôi biết) đi qua ngũ quan, ngũ giác được tổng hợp (thức thứ 6) sắp xếp (thức thứ 7) để tồn trữ trong tâm (thức thứ 8) khiến mỗi người cùng thấy sự kiện nhưng suy nghĩ, kết luận khác nhau. Từ thu thập tin tức từ bên ngoài qua Thân được lựa lọc, ghi nhận và tồn trữ tại Tâm. Đó là "hàng ngang".

"Hàng dọc" là từ thuở nhỏ, chưa có trí tuệ để  hiểu biết (vô minh) nên làm bừa (Hành), khi làm thì tiếp nhận (thức) về tên gọi (danh) và màu (sắc) qua các cơ quan của Thân (ngũ giác, ý thức) với tiếp xúc (thọ) sinh ra yêu thích (ái), rồi lưu giữ (thủ) thành cái tôi có (hữu) cho đó là sống (sinh) và khi tất cả không còn tụ hợp thành cái "tôi" và tan rã (chết).

Cá thể và tập thể (nhiều cá thể) có căn bản giống nhau nhưng vì tiến trình phát triển (ngang-dọc) khác nhau nên có "tôi" và "anh", nam và nữ... gây tranh chấp, xung đột. Nhưng nếu cá nhân có ý thức tu dưỡng để quan sát "Tâm" đang "thức" (ghi nhận tin tức bên ngoài vào) để cảnh giác sự yêu, thích, ham muốn sẽ tạo tư tưởng lưu giữ ABC trong đầu để trở thành cái "tôi" này xung đột với cái "tôi" khác về "sống" và "chết". Nếu sống chết như nhau thì còn gì để xung đột? Cái gì sẽ còn lại khi sự sợ hãi biến mất, khi lòng tham không còn?

Nhưng hiện nay, các nhà tương lai học vẫn nhìn về phía trước, bên ngoài để chạy đua với thời gian (chỉ là ngọn) mà không nhìn vào bên trong con người để tìm hiểu "Tâm và Thân" (là gốc). Sự mong mỏi được tham dự vào tiến trình thay đổi tương lai trở thành yếu tố hấp dẫn lôi kéo mọi người vào cuộc chơi cũng chỉ là trò chơi cút bắt với ảo ảnh "hạnh phúc, tự do,thịnh vượng...". Nhưng khi bạn dừng lại, đứng sang một bên đường để nhìn lại thì nó có khác gì một "tôn giáo" mới đang rao giảng nhìn về tương lai tốt đẹp để dấn thân?

Họ (các nhà tương lai học) hy vọng gạt bỏ tức thì những bế tắc hôm nay để mở con đường mới lên "cung trăng". Họ nói về thiên nhiên, gạt bỏ thành kiến, quá khứ... nhưng vẫn chấp nhận mọi "người". Họ muốn nối kết người dân toàn thế giới với nhau qua họp mặt, ăn uống, thảo luận.... Nhưng nếu đã không hiểu con người (Nhân) từ trong Tâm ra ngoài Thân (đối lập thống nhất) sống trong môi trường nhị nguyên (Âm-Dương, Trời-Đất) thì khi nào phải cân bằng để tồn tại và khi nào chuyển hóa (ngũ hành) để vươn lên.

Nhân loại không thể tiếp tục thí nghiệm: một người giỏi (thiên tài) cứu triệu người hèn kém mà không nói đến một kẻ ác có thể thiêu hủy cả thế giới. Lối nhìn một chiều về cái Hay, Đẹp chỉ dẫn đến tranh chấp (đẹp nhất, giỏi nhất), bất lương thiện, giả dối. Thay vì chữ Nhẫn để giữ sự lương thiện, tìm ra Chân lý. Tuy nhận diện vấn đề của nhân loại là do con người và chỉ có con người mới giải quyết được nhưng thay vì đi tìm nhiều cách, phương pháp để giải quyết các nhu cầu của con người thì vẫn chỉ là ngọn, bên ngoài.

Nếu bạn tìm được cái A tốt thì cái xấu của nó ở đâu? Và vòng tròn tái diễn. Tây phương vẫn không nhìn cái gốc từ bên trong con người: Tâm khởi. Chạy theo cái Tâm khởi thì sẽ không bao giờ hết. Muốn có công bằng xã hội thì phải có công bằng trong Tâm mỗi người.

Cá Thể và Toàn Thể Đối Lập Thống Nhất (P2)

Trần Công Lân

Tháng 5 năm 2024 (Việt lịch 4903)

Cá Thể và Toàn Thể Đối Lập Thống Nhất (P2)

Ô nhiễm môi sinh vì con người xả rác. Sẽ có bao nhiêu phát minh, nỗ lực để dọn sạch rác trên biển? Bao lâu? Thay vì mỗi cá nhân hạn chế thực phẩm tiêu thụ, rác do mình phế thải. Nếu nhìn về tương lai để tìm 100 cái mới (tốt) thì trong lúc đó con người vẫn tiếp tục 1000 cái xấu, và cái xấu tự nó tăng cấp số nhân. Cuộc chạy đua vô tận và con người trước khi tìm được cái tốt đã chết ngộp vì không ngăn chận được cái xấu nhanh hơn với sự tiếp tay của cái Ác.

Tựu chung căn bản vẫn là vấn đề cá thể đối với tập thể cần đối lập thống nhất khi đi tìm một phương thức hướng dẫn mọi người nhìn về tương lai (đầu mối quy tụ tìm sự thống nhất) là mục đích của tập tài liệu do PBS thực hiện. Nhưng theo Lý Đông A thì đó là một trong 3 nguyên lý cơ bản của "Bản vị học thuyết" (Nhân loại bản vị, Dân tộc bản vị và Trung tâm bản vị: quốc gia). Phim tài liệu của PBS chỉ đạt nguyên lý: "xã hội với tự nhiên đối lập thống nhất" (khi nạn ô nhiễm môi sinh xảy ra) và "thời gian và tiến hóa đối lập thống nhất" khi nhìn về tương lai với tiến triển khoa học và bảo vệ môi trường sống nhưng trên nền tảng nào thì không nói tới.

Nhóm thực hiện tài liệu nghĩ rằng khi đồng ý mục tiêu thì mọi người sẽ xóa bỏ dị biệt. Nhưng quá khứ lịch sử Hoa Kỳ đã cho thấy khi các nhóm di dân đồng ý về một quốc gia mới khác Âu Châu thì dị biệt vẫn còn và dẫn tới nạn kỳ thị hôm nay mà hiến chương Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc không giải quyết được. Khi nền văn minh Tây phương vẫn không tìm được "đối lập thống nhất" hay "hỗ tương nguyên nhân" để cân bằng phương trình suy nghĩ và hành động trong đời sống tương tự như nguyên tắc Âm Dương, Ngũ hành hay "tiền đề-phản đề-tổng hợp đề" trong triết học. Nếu "phương trình" Tiền đề và phản đề không đúng (hay cân xứng) thì sẽ không đưa ra kết quả đúng (tổng hợp đề).

Bạn có thật lòng giải quyết vấn nạn trước mắt (trong đời sống) hay giả vờ? (đó là tự kỷ nguyên nhân cũng là hỗ tương nguyên nhân) Dân chủ đáy tầng không phải như dân chủ Tây phương nổi loạn lật chính quyền gọi là cách mạng rồi không biết đi về đâu. Dân chủ đáy tầng đòi hỏi cá nhân tu dưỡng, nắm vững tiền đề, nền tảng các nguyên tắc suy nghĩ, lý luận, hành động (căn bản Nghĩa, Học, Luận, Quan) để mọi người cùng bước theo nhịp dân chủ mà không do đảng phái nào chế ngự.

Cuối cùng của tập tài liệu là người thuyết trình xác nhận sự hiện hữu quan trọng hơn cả (những gì đang làm, quyết định) những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Lời nói có vẻ "hiện sinh" nhưng lập lại lời nói của cổ nhân nhưng chưa (hay không) sống như cố nhân thì vô nghĩa. Biết (giác) và gặp (ngộ) để ăn uống, trao đổi ý kiến không thể nói là hiểu nhau để giải quyết vấn đề chung khi mỗi cá nhân vẫn chưa hiểu mình. Dân chủ Tây phương cho phép con người tìm hiểu để cải thiện đời sống. Sự thành công về vật chất không giải quyết được bế tắc về tinh thần (tội ác và bệnh tâm thần) vì gốc (nền tảng) của cá nhân và xã hội đã không được xác định trên những nguyên tắc của triết học chứ không phải đến từ tôn giáo hay tâm lý học.

Lối giải quyết của các nhà tương lai học vẫn nằm trong chiều hướng của thế lực lãnh đạo chính trị khi nhìn thấy bế tắc trong hiện tại, khi lỗi lầm của quá khứ chồng chất, biến hóa và họ không chấp nhận sai lầm bằng cách thú nhận hay phủ nhận mà giải quyết bằng cách mở con đường mới qua tầm nhìn của "tương lai học" để lôi kéo loài người vào một mê trận mới. Vẫn là vận dụng Tâm lý học để đánh lạc hướng những ai muốn giải quyết vấn đề của nhân loại hôm nay.

Cho tới khi nào các nhà lãnh đạo chính trị chấm dứt trò chơi "dân chủ" bằng cách mượn vai trò "đại diện" dân để hại dân và khi dân phản đối (biểu tình) thì tạo lực chống đối và họ nhân danh vai trò lãnh đạo chính trị để tiếp nối sự hòa giải mọi xung đột xã hội và dùng tâm lý để vận động tranh cử. Cứ như vậy vòng luẩn quẩn tái diễn. Mọi câu hỏi trước tòa (hay điều trần Quốc Hội) sẽ đưa đến trả lời "có" hay "không" (Yes - No) của người dân chứ không đến từ giới lãnh đạo. Khi tương quan giữa cá thể và toàn thể không đối lập thống nhất thì sinh hoạt dân chủ chỉ là trò chơi lừa bịp bằng ngôn ngữ của luật pháp.

Như vậy không có nghĩa là nền dân chủ Tây phương đi vào ngõ cụt. Tất cả do con người. Vẫn còn có người cố gắng đi tìm sự thật, tìm lối thoát cho nhân loại nhưng mọi sự cố gắng nếu không bắt trúng mạch (biện chứng triết học) để giải quyết mọi vấn đề trong xã hội loài người. Mơ ước đó không thể giao phó cho thông minh nhân tạo (AI) hay một số chuyên gia các ngành ngồi lại như tài liệu của PBS cho thấy (vì vẫn đi vào chiều hướng cũ). Đi tìm cái mới có thể là không mới nếu nhìn lại các tôn giáo muốn phục vụ nhân loại đã kêu gọi tình thương, bác ái, đơn giản, hòa đồng... nhưng tại sao kết quả không đến? Phải chăng vì con người đã bóp méo sự thật vì lý do X nào đó. Nếu không nhận diện lý do X đó mà vẫn chạy theo "tương lai" (khác gì những lời rao giảng trong tôn giáo) để rồi lại gặp X tái diễn?

Nhìn lại nền dân chủ Mỹ phải chăng đã và đang âm thầm đề cao cái Ác, mạnh bạo nhưng sự tiếp nối của các nhà tiên phong xây dựng nước Mỹ qua sự tiêu diệt dân địa phương (da đỏ), khai thác nô lệ và áp bức, bóc lột di dân (hợp pháp lẫn bất hợp pháp). Luật pháp và trật tự chỉ áp dụng cho kẻ yếu, nghèo, ngoan ngoãn chờ đợi công lý phân xử. Còn kẻ mạnh bạo, ác vẫn tung hoành để làm giàu, bóc lột (hợp pháp lẫn bất hợp pháp) và dùng tiền bạc mua chuộc bất cứ người, vật có thể mua chuộc được (kể cả công lý, dân chủ).

Nếu nói theo tâm lý học thì kẻ Ác, đã khởi tâm Ác, thì sẽ và tiếp tục làm ác. Tù tội, hình phạt, bệnh viện tâm thần chỉ là trò chơi gạt dân đen. Khi trò chơi dân chủ mượn sự chọn lựa (choice, option) mà không đi với sự giáo dục, sự cân bằng hai chiều (hỗ tương nguyên nhân) cũng như trách nhiệm đôi bên (chủ-thợ, người sản xuất- người tiêu thụ). Phải chăng nước Mỹ và thế giới tự do, dân chủ đang cần một cuộc cách mạng thực sự.

Cuộc cách mạng dựa trên triết học nhân bản để thực hiện nhân quyền cho loài người chứ không phải chỉ là cuộc nổi loạn của dân chống chính quyền đương thời mà chính tầng lớp lãnh đạo cách mạng cũng không biết đi về đâu hay sẽ làm gì sau khi cách mạng thành công. Phải chăng Tây phương chuộng thực dụng mà không biết đến Mệnh lý (sinh mệnh tâm lý). Tại sao đã biết Tâm lý mà lại không biết Mệnh? Hay đó là sự mất cân bằng vì giấu diếm hay không có câu trả lời.

Cái Ác dễ làm nên kẻ hèn và ngu bị lôi cuốn bởi kết quả -- nhưng mọi người quên đi đời sống con người là tìm hiểu sự thật. Bạn có thể bị lôi cuốn bởi cảnh bên đường nhưng cuối cùng bạn vẫn phải trở lại con đường đi tìm sự thật. Mà muốn tìm đến sự thật (Chân) thì bạn phải Thật lòng (Thiện) vì giả dối chỉ dẫn bạn đi đến với giả dối. Muốn sống Thiện thì bạn phải kiên nhẫn (Nhẫn) với thời cuộc, với lòng người thay trắng đổi đen.

Cách mạng không phải chỉ là lật đổ chế độ đương thời mà là kiến thiết sau đó. Kiến thiết cái gì, như thế nào, sẽ đi về đâu? Đó không phải chỉ là thực dụng hay biết đến đâu làm đến đó. Kiến thiết là kế hoạch. Kiến thiết phải có nền tảng vật chất và tinh thần. Là sự kết tụ sức mạnh tinh thần và vật chất của dân tộc và văn hóa, dựa trên khoa học và triết học để tránh những sai lầm lịch sử. Cách mạng đòi hỏi kiên nhẫn để học tập và chuẩn bị. Cách mạng không phải là cuộc chạy đua để tới đích trước tranh phần thắng, giành ăn. Cách mạng khởi đi từ cá nhân đến tập thể. Ý kiến có thể khác biết nhưng phải đối lập thống nhất trên cùng một mục tiêu: xây dựng xã hội, đất nước và nhân loại.

Lý Đông A nói đến cách mạng gốc, cuộc cách mạng thực hiện bởi "đáy tầng", bởi những con người có tu dưỡng để thực hiện một chế độ giáo dưỡng với Cơ Năng Hiến Pháp cùng với một nền kinh tế nhân bản. Có ai muốn tìm hiểu Lý Đông A đã nói gì không?

Trần Công Lân

Tháng 5 năm 2024 (Việt lịch 4903)

 

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2024

Nhân Bản Cương Thường: Nhu Cầu Hợp Tác

 Thế giới của hôm nay là thế giới mở. Gánh nặng ô nhiễm môi trường không những ảnh hưởng đến quốc gia giàu mà gồm cả những quốc gia nghèo, những thổ dân sống trong rừng núi của Amazon. Bệnh dịch COVID-19 xảy ra ở Trung Quốc để rồi ảnh hưởng đến toàn thế giới càng chứng tỏ thế giới của hôm nay là thế giới mở, không phải đóng kín. Mạng xã hội kết nối mọi người ở bất cứ nơi nào trên thế giới.

Một thế giới mở thì tạo ra nhu cầu hợp tác bởi chỉ có sự hợp tác thì mới tạo ra sự cảm thông -- từ đó có những chính sách phù hợp với mỗi quốc gia, mỗi cá nhân để cùng nhau chung sống hầu giảm thiểu chiến tranh, giảm thiểu những bất loạn của xã hội.

Sự hợp tác có những điều kiện để bảo đảm sự hợp tác đạt tính hiệu quả lâu dài thay vì là ngắn hạn. Điều kiện của bất cứ sự hợp tác nào, tùy theo dạng cá nhân hay tập thể, có thể khác nhau để phù hợp với hoàn cảnh nhưng không thể nào thiếu sự tôn trọng và thành thật của các đối tượng hợp tác.

Tôn trọng đối tượng hợp tác để tránh tình trạng cá lớn nuốt cá bé. Tôn trọng để không lợi dụng thế nước lớn hầu áp đặt chủ trương, chính sách vào đối tượng hợp tác; hoặc đặt nước nhỏ trong vị thế phải chịu sức ép để chấp nhận vì không có con đường nào khác. Tôn trọng để lắng nghe hầu tìm ra giải pháp tốt đẹp để sự hợp tác hai bên cùng có lợi.

Có những sự hợp tác mà không cần đòi hỏi quyền lợi vì đối tượng hợp tác không có khả năng để đáp ứng quyền lợi của phía kia. Thí dụ khi thiên tai (bệnh dịch) xảy ra ngoài khả năng của một cơ cấu chính quyền thì sự hợp tác từ các quốc gia khác giúp quốc gia đang bị thiên tai (bệnh dịch) là sự hợp tác tự nguyện, vô điều kiện hầu giải quyết những khó khăn mà quốc gia sở tại đang gặp phải.

Có những sự hợp tác đòi hỏi điều kiện để cải thiện một khía cạnh nào đó trong xã hội trước khi sự hợp tác được thực hiện. Thí dụ một chính quyền không tôn trọng quyền sống của người dân thì quốc gia hợp tác đặt điều kiện chính quyền sở tại phải thực hiện nhu cầu tự do trước khi sự hợp tác xảy ra. Điều kiện này không phải tạo quyền lợi riêng tư của quốc gia hợp tác mà là tạo quyền lợi cho tập thể của quốc gia sở tại. Thực tế thì trong sự hợp tác của các quốc gia hiện giờ để đạt lợi ích của mỗi quốc gia và quốc gia giàu có thường không quan tâm đến chuyện Nhân Bản Cương Thường cho nên sẵn sàng hợp tác với các chính quyền độc tài. Một nước Việt tương lai cần phải nhìn vấn đề hợp tác ở dạng rộng lớn, cởi mở, mang lợi ích không những cho quốc gia khác mà gồm cả đời sống của người dân ở quốc gia sở tại đó.

Nếu Nhân Bản Cương Thường là nền tảng sinh hoạt của một cơ cấu chính quyền thì Nhân Bản Cương Thường cũng là nền tảng của sự hợp tác giữa các quốc gia để tạo sự hài hòa, cùng tiến của mọi quốc gia, mọi dân tộc trên thế giới này.

Lời cuối

Trong tài liệu Duy Dân của Lý Đông A cho rằng sinh hoạt của chính quyền qua Cơ Năng Hiến Pháp phải đặt trên nền tảng của Duy Nhân Cương Thường. Duy Nhân Cương Thường có thể hiểu một nghĩa khác đó là Nhân Bản Cương Thường, những nền tảng căn bản của đời sống người mà không cần biết cá nhân đó thuộc sắc tộc nào, quốc gia nào đều có những nhu cầu giống nhau mà những nhu cầu này, một số không ít, đã có từ thời nguyên thủy của con người xuất hiện trên quả địa cầu này.

Hệ thống chính trị của quốc gia không phải là để cầm quyền, lãnh đạo, phân quyền mà hệ thống chính trị của quốc gia mục đích chính là thiết kế và chấp hành nhân sinh. Mà để thực hiện mục đích trên thì phải dựa vào nền tảng Nhân Bản Cương Thường. Hiến pháp của một quốc gia cũng phải dựa vào nền tảng Nhân Bản Cương Thường và sinh hoạt của hệ thống chính quyền phải dựa vào Cơ Năng Hiến Pháp (xin xem bài Cơ Năng Hiến Pháp Một Góc Nhìn).

Nhân Bản Cương Thường nằm ở vị trí cao hơn Nhân Quyền bởi Nhân Bản Cương Thường đi từ cái gốc của loài người nguyên thủy khi chưa có sự xuất hiện của bất cứ chính quyền nào. Nhân Bản Cương Thường được thay đổi theo sự tiến hóa của xã hội nhưng cái gốc của vấn đề không thay đổi. Con Người có thêm nhiều nhu cầu bởi do sự nhận thức gia tăng theo trình độ tri thức hiểu biết của Con Người. Nhu cầu ăn, ngủ, cư trú, tự chủ, hạnh phúc; bảo đảm an ninh về mặt tinh thần lẫn thể xác; bổn phận và trách nhiệm với xã hội, môi trường sống là nhu cầu căn bản của Con Người sống trên toàn thế giới này.

Người viết bài này cố gắng trong khả năng nhận thức vào đời sống thực tế để đưa ra một cái nhìn mới vượt lên cái gọi là Nhân Quyền bởi cái gọi là Nhân Quyền chỉ là một phần nhỏ của Nhân Bản Cương Thường và phần nhỏ đó không giải quyết được toàn bộ vấn đề mà thế giới đang đối diện của đầu thế kỷ thứ 21.

Là Con Người thì không ai hoàn hảo cho nên bài viết này nếu có phần thiếu sót, mong sự đóng góp của thế hệ sau đó bởi chính thế hệ hiện tại đó, ở tương lai, nhìn vấn đề thực tế hơn, rõ ràng hơn trong cái hoàn cảnh của tương lai.

Ít nhất đây là bài viết xây dựng nền tảng suy nghĩ về mặt đời sống của người để người Việt ở hiện tại cũng như tương lai có cái nhìn tổng thể (toàn vẹn) hầu có thể xây dựng hệ thống xã hội, chính quyền trên nền tảng này. Có thể nền tảng này không hoàn hảo lắm nhưng ít nhất nó nói lên toàn bộ vấn đề mà cái gọi là tuyên ngôn quốc tế nhân quyền chưa nói đến.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 11 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/06/01/nhan-ban-cuong-thuong-nhu-cau-hop-tac/

 

 

Nuôi Tâm Sinh Thiên Tài (P1)

“Nuôi Tâm sinh thiên tài.... Nuôi Óc sinh nhân tài.... Nuôi Thân sinh nô tài....” (Lý Đông A) Bởi vì hồn ma "Tùng Lâm" về ám...