Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2024

Nhân Bản Cương Thường: Nhu Cầu Hợp Tác

 Thế giới của hôm nay là thế giới mở. Gánh nặng ô nhiễm môi trường không những ảnh hưởng đến quốc gia giàu mà gồm cả những quốc gia nghèo, những thổ dân sống trong rừng núi của Amazon. Bệnh dịch COVID-19 xảy ra ở Trung Quốc để rồi ảnh hưởng đến toàn thế giới càng chứng tỏ thế giới của hôm nay là thế giới mở, không phải đóng kín. Mạng xã hội kết nối mọi người ở bất cứ nơi nào trên thế giới.

Một thế giới mở thì tạo ra nhu cầu hợp tác bởi chỉ có sự hợp tác thì mới tạo ra sự cảm thông -- từ đó có những chính sách phù hợp với mỗi quốc gia, mỗi cá nhân để cùng nhau chung sống hầu giảm thiểu chiến tranh, giảm thiểu những bất loạn của xã hội.

Sự hợp tác có những điều kiện để bảo đảm sự hợp tác đạt tính hiệu quả lâu dài thay vì là ngắn hạn. Điều kiện của bất cứ sự hợp tác nào, tùy theo dạng cá nhân hay tập thể, có thể khác nhau để phù hợp với hoàn cảnh nhưng không thể nào thiếu sự tôn trọng và thành thật của các đối tượng hợp tác.

Tôn trọng đối tượng hợp tác để tránh tình trạng cá lớn nuốt cá bé. Tôn trọng để không lợi dụng thế nước lớn hầu áp đặt chủ trương, chính sách vào đối tượng hợp tác; hoặc đặt nước nhỏ trong vị thế phải chịu sức ép để chấp nhận vì không có con đường nào khác. Tôn trọng để lắng nghe hầu tìm ra giải pháp tốt đẹp để sự hợp tác hai bên cùng có lợi.

Có những sự hợp tác mà không cần đòi hỏi quyền lợi vì đối tượng hợp tác không có khả năng để đáp ứng quyền lợi của phía kia. Thí dụ khi thiên tai (bệnh dịch) xảy ra ngoài khả năng của một cơ cấu chính quyền thì sự hợp tác từ các quốc gia khác giúp quốc gia đang bị thiên tai (bệnh dịch) là sự hợp tác tự nguyện, vô điều kiện hầu giải quyết những khó khăn mà quốc gia sở tại đang gặp phải.

Có những sự hợp tác đòi hỏi điều kiện để cải thiện một khía cạnh nào đó trong xã hội trước khi sự hợp tác được thực hiện. Thí dụ một chính quyền không tôn trọng quyền sống của người dân thì quốc gia hợp tác đặt điều kiện chính quyền sở tại phải thực hiện nhu cầu tự do trước khi sự hợp tác xảy ra. Điều kiện này không phải tạo quyền lợi riêng tư của quốc gia hợp tác mà là tạo quyền lợi cho tập thể của quốc gia sở tại. Thực tế thì trong sự hợp tác của các quốc gia hiện giờ để đạt lợi ích của mỗi quốc gia và quốc gia giàu có thường không quan tâm đến chuyện Nhân Bản Cương Thường cho nên sẵn sàng hợp tác với các chính quyền độc tài. Một nước Việt tương lai cần phải nhìn vấn đề hợp tác ở dạng rộng lớn, cởi mở, mang lợi ích không những cho quốc gia khác mà gồm cả đời sống của người dân ở quốc gia sở tại đó.

Nếu Nhân Bản Cương Thường là nền tảng sinh hoạt của một cơ cấu chính quyền thì Nhân Bản Cương Thường cũng là nền tảng của sự hợp tác giữa các quốc gia để tạo sự hài hòa, cùng tiến của mọi quốc gia, mọi dân tộc trên thế giới này.

Lời cuối

Trong tài liệu Duy Dân của Lý Đông A cho rằng sinh hoạt của chính quyền qua Cơ Năng Hiến Pháp phải đặt trên nền tảng của Duy Nhân Cương Thường. Duy Nhân Cương Thường có thể hiểu một nghĩa khác đó là Nhân Bản Cương Thường, những nền tảng căn bản của đời sống người mà không cần biết cá nhân đó thuộc sắc tộc nào, quốc gia nào đều có những nhu cầu giống nhau mà những nhu cầu này, một số không ít, đã có từ thời nguyên thủy của con người xuất hiện trên quả địa cầu này.

Hệ thống chính trị của quốc gia không phải là để cầm quyền, lãnh đạo, phân quyền mà hệ thống chính trị của quốc gia mục đích chính là thiết kế và chấp hành nhân sinh. Mà để thực hiện mục đích trên thì phải dựa vào nền tảng Nhân Bản Cương Thường. Hiến pháp của một quốc gia cũng phải dựa vào nền tảng Nhân Bản Cương Thường và sinh hoạt của hệ thống chính quyền phải dựa vào Cơ Năng Hiến Pháp (xin xem bài Cơ Năng Hiến Pháp Một Góc Nhìn).

Nhân Bản Cương Thường nằm ở vị trí cao hơn Nhân Quyền bởi Nhân Bản Cương Thường đi từ cái gốc của loài người nguyên thủy khi chưa có sự xuất hiện của bất cứ chính quyền nào. Nhân Bản Cương Thường được thay đổi theo sự tiến hóa của xã hội nhưng cái gốc của vấn đề không thay đổi. Con Người có thêm nhiều nhu cầu bởi do sự nhận thức gia tăng theo trình độ tri thức hiểu biết của Con Người. Nhu cầu ăn, ngủ, cư trú, tự chủ, hạnh phúc; bảo đảm an ninh về mặt tinh thần lẫn thể xác; bổn phận và trách nhiệm với xã hội, môi trường sống là nhu cầu căn bản của Con Người sống trên toàn thế giới này.

Người viết bài này cố gắng trong khả năng nhận thức vào đời sống thực tế để đưa ra một cái nhìn mới vượt lên cái gọi là Nhân Quyền bởi cái gọi là Nhân Quyền chỉ là một phần nhỏ của Nhân Bản Cương Thường và phần nhỏ đó không giải quyết được toàn bộ vấn đề mà thế giới đang đối diện của đầu thế kỷ thứ 21.

Là Con Người thì không ai hoàn hảo cho nên bài viết này nếu có phần thiếu sót, mong sự đóng góp của thế hệ sau đó bởi chính thế hệ hiện tại đó, ở tương lai, nhìn vấn đề thực tế hơn, rõ ràng hơn trong cái hoàn cảnh của tương lai.

Ít nhất đây là bài viết xây dựng nền tảng suy nghĩ về mặt đời sống của người để người Việt ở hiện tại cũng như tương lai có cái nhìn tổng thể (toàn vẹn) hầu có thể xây dựng hệ thống xã hội, chính quyền trên nền tảng này. Có thể nền tảng này không hoàn hảo lắm nhưng ít nhất nó nói lên toàn bộ vấn đề mà cái gọi là tuyên ngôn quốc tế nhân quyền chưa nói đến.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 11 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/06/01/nhan-ban-cuong-thuong-nhu-cau-hop-tac/

 

 

Nhân Bản Cương Thường: Nhu Cầu Cải Tạo và Bảo Quản Thiên Nhiên (P2)

 

Thiên Nhiên Trong Con Người

Chúng ta sinh ra với bộ óc, với trái tim. Sự khác biệt giữa Con Người với loài vật là ở bộ óc và trái tim của chính chúng ta. Tại sao có những người có trái tim rộng lớn, biết lo cho người khác và sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân cho quyền lợi của tập thể? Tại sao có những người hy sinh quyền lợi tập thể để lo cho quyền lợi của cá nhân? Hai hình ảnh khác biệt này là ở chính bộ óc của hai cá nhân được cải tạo một cách khác nhau để hai cá nhân có sự chọn lựa cuộc sống khác nhau. Một bên vì quyền lợi chung, một bên chỉ nghỉ đến quyền lợi của chính mình.

Nếu ai cũng nghĩ đến quyền lợi của chính mình thì phải chẳng thế giới này trở lại thời kỳ nguyên thủy loài người, mạnh được yếu thua mà không quan tâm đến quyền lợi của những Con Người khác trong xã hội? Đây chính là hướng tiến đi ngược lại đường sống của lịch sử Con Người.

Sự cải tạo thiên nhiên trong mỗi Con Người chúng ta trước hết là cho chính bản thân chúng ta. Cha mẹ sinh ta ra với bộ óc, trái tim, tính tình sẵn có. Cha mẹ và xã hội nuôi dưỡng chúng ta lớn lên và chính trong chúng ta phải phát triển bộ óc của chính mình để tự mình làm chủ lấy mình chứ không để bất cứ ai làm chủ bản thân của mình.  Sự tự giác trong mỗi chúng ta là do sự rèn luyện từ tri thức bên trong bộ óc của chính mình. Chẳng ai dạy và chỉ cho chúng ta tìm được sự tự giác mà sự tự giác từ chính trong tri thức tìm ẩn trong bộ não của chúng ta, do chính chúng ta cải tạo và làm sống dậy cái tri thức đó để thấy được thế nào gọi là tự giác.

Giáo dục ở trường học hoặc ngoài xã hội chỉ giúp chúng ta một phần trong tiến trình tìm kiếm tự giác trong bản thân của chúng ta. Chỉ có sự tự giác thì chúng ta mới nhìn được vấn đề rõ ràng hơn, ở dạng tổng thể (toàn diện) chứ không phải ở dạng phiến diện. Chỉ có sự tự giác chúng ta mới có thể làm chủ lấy mình và điều chỉnh cuộc sống của mình, tính tình của mình cho phù hợp với đời sống của xã hội Con Người, đồng thời đóng góp công sức để làm cho xã hội tốt đẹp hơn.

Cải tạo thiên nhiên trong Con Người của chúng ta gồm cả thái độ ăn uống hằng ngày, cuộc sống hằng ngày. Một Con Người ăn uống cẩu thả, không đều độ, chỉ ăn nhậu, chỉ nghĩ đến dâm dục, vật chất mà không nghĩ đến những chuyện khác thì thử hỏi Con Người đó sẽ đóng góp được gì cho xã hội? Một Con Người khác biết chọn thức ăn, biết tập thể dục hằng ngày, tránh rượu chè, cờ bạc và tập trung vào việc tu dưỡng bản thân để giúp người khác cùng tu dưỡng bản thân, tạo ra một xã hội tốt đẹp hơn thì chính Con Người này đã biết cải tạo cái tri thức (tự nhiên) của chính mình.

Cải tạo cái tự nhiên trong chính Con Người phải khởi đầu bằng chính bản thân đặc biệt là ở Việt Nam, một môi trường xã hội đã biến Con Người thành những Con Vật, để người khác nắm sinh mệnh của chính mình thay vì tự chính mình nắm lấy sinh mệnh của mình. Cái môi trường xã hội ở Việt Nam là một môi trường hoàn toàn hư hỏng và là môi trường đào tạo ra những con vật đội lốp Người. Đây chính là xã hội của thời nguyên thủy mà cuộc sống của Con Người luôn luôn bị đe dọa. Vậy thì người Việt hôm nay phải tự mình nhìn lại chính mình, cải tạo ngay chính tri thức bên trong của mình, loại bỏ những quyền lợi ngắn hạn để chọn thái độ tự chủ cho chính mình và dân tộc mình. Chỉ khi nào chính chúng ta làm chủ được bản thân thì lúc đó mới có một nền hòa bình thực sự, một nền dân chủ thực sự, một xã hội nhân bản.

Nói đến người Việt trong nước mà không nói đến người Việt tại hải ngoại thì là một sự thiếu sót trầm trọng. Người Việt tại hải ngoại tuy khá hơn người Việt trong nước bởi được sống ở môi trường tự do nhưng số đông vẫn sống cho có sống chứ không hề nghĩ đến chuyện cải tạo thiên nhiên ở chính mình để tự mình làm chủ lấy mình.

Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, người Việt nói riêng và loài người nói chung, đã mất tính tự chủ. Họ để khoa học kỹ thuật làm chủ bản thân của chính họ. Từ những cái điện thoại thông minh, đến các mạng xã hội và những thông minh nhân tạo đã biến con người trở thành nô lệ cho khoa học kỹ thuật thay vì sử dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao đời sống của bản thân và xã hội.

Đời sống vật chất cao của thời đại hôm nay đã làm con người theo đuổi dục vọng (tiền, dâm, danh, quyền) thay vì tự chính mình chọn cuộc sống đơn giản, an bình và dồn thời gian, tiền bạc còn lại cho những lợi ích chung cho xã hội. 

Nếu cải tạo thiên nhiên bên ngoài đã khó thì cải tạo thiên nhiên ở chính bên trong của mỗi người càng khó hơn. Nó đòi hỏi ý chí, một ý chí mãnh liệt và nếu có ý chí mãnh liệt đó, ai cũng có thể làm được. Hình ảnh anh Nick Vujicic, cụt hai tay, hai chân nhưng vẫn sống như mọi người, có vợ, có con, vui vẻ với cuộc sống và đi khắp nơi trên thế giới để nói chuyện hầu khuyến khích mọi người đừng bỏ cuộc cho dù nhiều điều xảy ra cho cơ thể không như ý muốn của mình.

Chính ý chí mãnh liệt đã làm cho nhiều người sinh ra không chân, không tay vẫn có thể sống như một người có đầy đủ chân tay. Anh Nick Vujicic chỉ là một trong nhiều người bất hạnh lúc sinh ra là người tàn tật. Nhưng không vì sự tàn tật đó làm cho họ sống nhờ vã người khác, trái lại ý chí mãnh liệt đã làm họ vượt lên trở ngại tàn tật để sống và làm việc như mọi người. Đó chính là hình ảnh cải tạo thiên nhiên ở bên trong của chính mình.

Cải tạo thiên nhiên bên trong chính mình để tự mình hiểu mình, sửa đổi những cái xấu, bồi đấp những cái tốt để đóng góp cho xã hội, cho những người chung quanh cùng nhau đồng tiến thay vì chỉ quan tâm đến bản thân và gia đình của mình thôi.

Quan niệm của y học Đông phương về Âm Dương Ngũ Hành bên ngoài thiên nhiên cũng như bên trong cơ thể con người về lục phủ ngũ tạng, điều hòa khí huyết vẫn là những bài học cần thiết cho đời sống con người. Cũng như cây cỏ trong thiên nhiên là vị thuốc chữa trị bệnh tật cho con người cho thấy liên quan giữa thiên nhiên và loài người.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/06/01/nhan-ban-cuong-thuong-nhu-cau-cai-tao-va-bao-quan-thien-nhien-p2/

 

 

Thứ Năm, 23 tháng 5, 2024

Nhân Bản Cương Thường: Hôn Nhân & Kinh Doanh

Quyền tự do hôn nhân

Hôn nhân là quyền của Con Người trong sự lựa chọn người phối mẫu của mình mà không phải là sự dàn sếp, sắp đặt của bố mẹ khi trẻ mới sinh ra hay lúc còn thơ ấu. Hôn nhân là sự tự nguyện của hai cá nhân sống trong xã hội và hôn nhân đi kèm theo trách nhiệm.

Quyền hôn nhân của thời đại hôm nay, ở những quốc gia Tây Phương đã bị các vị thẩm phán nhìn một cách lệch lạc đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường. Trước hết phải hiểu rõ hôn nhân là gì và mục đích của hôn nhân trước khi nói đến tại sao hôn nhân có thể đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường.

Hôn nhân từ thời xa xưa cho đến nay, từ thuở Con Người xuất hiện trên trái đất này, từ thuở Con Người nhìn ra được nhu cầu phát triển giống nòi: đây là sự phối hợp giữa một Nam và Nữ. Đây là sự phối hợp để chứng minh thuyết Đối Lập Thống Nhất, Cơ Năng và Bản Vị của Lý Đông A.

Các học thuyết khác, đặc biệt là học thuyết của Max, đối lập là phải tiêu diệt nhau để sống còn. Giai cấp bị trị tiêu diệt giai cấp thống trị để được sống còn. Tuy nhiên, Lý Đông A nhìn vấn đề khác hơn, nhìn vấn đề ở dạng tổng thể, để mọi người cùng nhau sống còn thay vì diệt nhau như loài cầm thú.

Đối lập luôn luôn là thực tế của cuộc sống. Đối lập là để cân bằng cuộc sống và để cùng nhau nâng đỡ, cùng nhau tiến bộ trong cuộc sống của loài người. Sự phối hợp giữa Nam và Nữ; một Dương, một Âm tuy có đối lập nhưng sự đối lập này được hai bên thỏa thuận để không xảy ra sự triệt hạ lẫn nhau, trái lại cố gắng hòa hợp để tạo ra bản vị gia đình.

Hôn nhân ngoài việc phối hợp giữa hai cá nhân (nam-nữ) mà còn là làm công việc phát triển giống nòi, thực hiện đúng luật của tạo hóa, của thiên nhiên. Tuy nhiên, các vị thẩm phán ở các nước tự do đã nhìn vấn đề lệch lạc và cho rằng đây là Quyền Hôn Nhân chứ không nhìn vào cái mục đích của hôn nhân. Chính vì thế mà ở những quốc gia dân chủ Tây Phương, họ cho rằng quyền hôn nhân dành luôn cho những người đồng tình luyến ái. Nếu quyền hôn nhân dành cho tất cả mọi người, gồm cả những người đồng tình luyến ái này thì xã hội Con Người đã đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường, xã hội loài người không còn hiện hữu như hôm nay.

Nói thế không có nghĩa là chúng ta cấm đoán những người đồng tình luyến ái sống chung với nhau. Sự sống chung giữa những người đồng tình luyến ái là quyền riêng tư, họ tự giải quyết với nhau và đồng ý chọn con đường đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường trong vấn đề phát triển giống nòi. Tự ý chọn cuộc sống đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường nhưng chỉ có hai cá nhân bị ảnh hưởng, xã hội không bị ảnh hưởng.

Trên lãnh vực tự nhiên của Con Người thì sự hòa hợp giữa những người đồng tình luyến ái tức là trạng thái bất bình thường. Nếu có những Con Người sinh ra mang bệnh tự kỷ (austism), cần có sự chăm sóc đặc biệt để cá nhân này có thể hòa nhập vào cuộc sống xã hội thì những người đồng tình luyến ái cũng thuộc về một dạng bệnh về sinh lý, xã hội cần phải giúp đỡ để họ có thể hòa nhập vào cuộc sống bình thường của xã hội.

Nói về giấy hôn thú, nếu chuyện lập gia đình (nam-nữ hay đồng tình luyến ái) cần phải có giấy hôn thú thì giấy hôn thú phải chia ra làm hai loại. Loại một dành cho những người Nam-Nữ lập gia đình để phát triển giống nòi theo tiến trình tự nhiên của xã hội. Loại hai dành cho những người đồng tình luyến ái.

Nếu giấy hôn thú là loại thủ tục để bảo đảm quyền lợi của hai cá nhân đồng ý sống chung với bản vị là gia đình thì những người đồng tình luyến ái cũng cần có tấm giấy hôn thú đó. Đây không phải là kỳ thị (hai loại giấy hôn thú) mà là sự phân biệt cần thiết cũng giống như bằng lái xe, được chia ra nhiều loại khác nhau chứ không phải bằng lái xe thường lại được phép lái xe vận tải 18 bánh hoặc xe buýt.

Quyền tự do kinh doanh

Để thực hiện nhu cầu nhu yếu (ăn, mặc, chỗ ở), con người phải có quyền tự do kinh doanh. Ngày xưa ở cái thời sống bằng săn bắt, con người đi đó đây để tìm thức ăn cho mình. Ngày nay cuộc sống không còn là du mục, đi đó, đi đây mà là định cư một chỗ nhất định.

Sự định cư này bởi con người dùng kinh doanh để tạo ra vật chất, trao đổi với người khác hầu tự mình đáp ứng nhu cầu nhu yếu của chính mình. Vậy thì quyền tự do kinh doanh cần phải có để giải quyết nhu cầu nhu yếu.

Khi nói về quyền tự do kinh doanh thì phải nói đến kinh doanh như thế nào và kinh doanh đó dựa trên cơ bản nào?

Nhân Bản Cương Thường là căn bản để quyết định mọi hành động của cá nhân, của chính sách quốc gia. Hành động kinh doanh của mỗi cá nhân không thể vi phạm đến Nhân Bản Cương Thường và luật pháp của quốc gia. Kinh doanh để giải quyết nhu cầu nhu yếu của cá nhân và đồng thời phục vụ lợi ích của những người khác trong xã hội. Kinh doanh chỉ để giải quyết nhu yếu của cá nhân mà ảnh hưởng đến nhu cầu nhu yếu của người khác một cách quá độ thì đã đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường.

Thí dụ một hãng thuốc sản xuất loại thuốc mới do tiền của dân chúng bỏ vào trong việc thử nghiệm, tìm tòi loại thuốc mới. Vậy thì công ty thuốc đó, sau khi tìm ra được loại thuốc mới, không thể nào bán giá thuốc mà chỉ có người giàu mới có thể mua được. Cho dù số tiền do chính công ty đó bỏ ra cho chuyện nghiên cứu, thử nghiệm, nhưng với luật độc quyền thuốc trong khoảng thời gian nào đó, công ty thuốc có thể thu lại số tiền bỏ ra và tạo ra lời thì không thể nào vì lợi nhuận to lớn của chính công ty để rồi những người nghèo không thể nào mua được thuốc cần thiết cho chính mình.

Mỗi cá nhân trong xã hội phải xem sản phẩm mình tạo ra để phục vụ xã hội hay làm thiệt hại xã hội. Nếu sản phẩm tạo ra làm thiệt hại xã hội thì tức là đã đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường.

Khi nói về kinh doanh, các nước Tây Phương thường hay nói đến luật Cung – Cầu. Phải chăng có luật Cung – Cầu hay đây chỉ là luật kinh tế để áp dụng ở một số sản phẩm chứ không phải ở tất cả sản phẩm? Luật cung cầu có áp dụng cho ngành y tế hay không?

Hãy tìm hiểu về luật cung cầu ở Mỹ trên lãnh vực giá tiền xăng. Trong một ngày, giá xăng cho một gallon của Mỹ có thể lên 20 cents và khi giá xăng xuống thì chỉ xuống một vài cents. Vậy thì luật Cung-Cầu hoàn toàn không có trên sản phẩm xăng dầu này mà là do các công ty xăng dầu tự động quyết định giá cả chứ chẳng phải dựa vào luật cung cầu. Dầu thô tiếp tục sản xuất, nhà máy dầu tiếp tục sản xuất thì không thể nào cho rằng lượng sản xuất của hôm nay khác với hôm qua nên tăng lên 20 cents một gallon hoặc lúc xuống giá thì lại xuống từ từ. Đây là độc quyền thị trường, độc quyền giá cả của các hãng xăng dầu.

Một thị trường khác không thể nào áp dụng luật cung – cầu đó là bệnh viện, thuốc men. Số người bệnh vẫn không gia tăng cho dù bệnh viện có hạ giá hay thuốc men hạ giá. Vậy thì nhu cầu y tế cần phải được có những luật pháp đưa ra để bảo đảm mọi người, có tiền hay không có tiền, đều có thể sử dụng y tế cho sức khỏe của chính mình. Đừng để hệ thống y tế như ở Hoa Kỳ, chỉ dành cho người có tiền và người không tiền thì chờ chết bởi không có đủ khả năng để mua thuốc hoặc trả cho những cơn mổ cần phải mổ trước khi cơn bệnh trở thành trầm trọng ảnh hưởng đến tính mạng.

Một vấn đề khác cần phải quan tâm trong vấn đề tự do kinh doanh đó là sự mua lại các công ty lớn để độc quyền thị trường. Các cơ quan nghiên cứu kinh tế của quốc gia cần phải đánh giá vấn đề này thật kỹ, đừng để cho những đại gia, dùng tiền để thu tóm thị trường và sau đó thì thao túng thị trường.

Tự do kinh doanh mà ảnh hưởng đến môi trường sống của mọi người, hoặc sử dụng phí phạm tài nguyên thiên nhiên quá độ vì lợi nhuận chứ không phải vì nhu yếu tức là đã đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường. Nhu cầu nhu yếu căn bản của con người rất là đơn giản. Đa số vì lợi nhuận cao, vì muốn làm giàu và chính cái tư tưởng làm giàu không giới hạn này đã đưa đến sự phí phạm tài nguyên thiên nhiên, đưa đến sự khai thác thiên nhiên quá độ mà không biết bảo quản thiên nhiên cho những thế hệ sau đó. Những nước phát triển cao tạo ra đồ ăn quá thừa thải và đem bán tháo, bán đổ vào thị trường ở những nước khác để phá hoại nền sản xuất của nước khác tức là đã vi phạm Nhân Bản Cương Thường.

Một vấn đề của kinh doanh ở thời đại điện toán, những công nghệ điện thoại hay công nghệ thông minh máy móc như google home, amazon echo. Tất cả những công nghệ này được cài một loại phần mềm để bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân. Tuy nhiên, khi một cá nhân đã vi phạm luật làm thiệt hại đến sinh mạng của người khác, nền an ninh của quốc gia thì các công ty sản xuất sản phẩm này phải hợp tác với cơ quan điều tra, khóa mở những an ninh trong phần mềm để giúp cơ quan điều tra ra thủ phạm hay tòng phạm.

Dĩ nhiên cơ quan điều tra phải có trát tòa đòi hỏi công ty phải thực hiện chuyện này. Đây là trách nhiệm của một công ty đối với xã hội khi mà một thành phần trong xã hội bị thiệt hại tính mạng, khi mà nền an ninh quốc gia đang bị đe dọa do một vài thành phần quá khích trong xã hội -- thì những công ty có những phần công nghệ mềm để giữ quyền riêng tư phải hợp tác với cơ quan điều tra, thực hiện trách nhiệm đối với xã hội mình phục vụ.

Điều này chỉ áp dụng khi một sự kiện đã xảy ra có ảnh hưởng đến sinh mạng của người khác, hoặc ảnh hưởng đến nền an ninh của quốc gia mà cá nhân bị tình nghi đã qua đời. Còn như cá nhân bị tình nghi vẫn còn sống thì để thực hiện chuyện khóa mở những an ninh phần mềm phải có sự đồng ý của cá nhân đó. Nếu cá nhân đó không đồng ý thì trát tòa cũng sẽ vô giá trị bởi cá nhân đó có quyền im lặng, không hợp tác với cơ quan điều tra nếu sự hợp tác có thể làm ảnh hưởng đến sự an sinh của chính cá nhân đó.

Bất cứ công ty thương mại nào khi sản xuất ra sản phẩm mà sản phẩm đó sẽ tạo ra phế thải sau một thời gian sử dụng sản phẩm thì công ty tạo ra sản phẩm phải có cách giải quyết những phế thải đó chứ không thể để cho người tiêu thụ bỏ phế thải đó vào đất, vào nước để ảnh hưởng đến môi sinh sống của người dân. Thí dụ công ty sản xuất những cục bin sử dụng cho các máy móc thì phải tạo ra nơi để người sử dụng bỏ những cục bin phế thải đó thay vì bỏ vào thùng rác. Hoặc công ty xe sản xuất xe điện thì sau khi bình điện hết hạn thì công ty xe phải có nơi để thu nhận những bình điện phế thải đó chứ không phải để người chủ xe muốn bỏ đâu thì bỏ.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/05/01/nhan-ban-cuong-thuong-hon-nhan-kinh-doanh/

 

 

Nhân Bản Cương Thường: Bình Đẳng & Ứng Cử, Bầu Cử

Quyền bình đẳng cơ hội và nghĩa vụ

Khi những con người thời nguyên thủy hợp thành một bộ lạc thì quyền bình đẳng cơ hội và nghĩa vụ chưa hề có. Ở cái thời đó, quyền hành và nghĩa vụ được người trong bộ lạc quyết định. Dĩ nhiên, khi sự quyết định do bộ lạc trưởng hay do ai đó trong bộ lạc nhận lãnh trách nhiệm này có thể không công bằng và có nhiều thiên vị.

Rồi từ một bộ lạc kết hợp với nhiều bộ lạc khác, cuối cùng một xã hội được hình thành. Xã hội từ thời nguyên thủy đến thời đại hôm nay được hình thành với nhiều hình thức. Từ trưởng tộc, mẫu hệ, phong kiến, thực dân, cộng sản, tư bản theo tiến trình tiến hóa của xã hội Con Người. Khi xã hội càng tiến hóa thì con người càng thấy những truyền thống xa xưa của thời đại trước đó không hợp lý cần phải sửa đổi.

Với xã hội hiện giờ, người ta nói nhiều về bình đẳng cơ hội. Bình đẳng cơ hội phải đi đôi với bình đẳng nghĩa vụ và quyền lợi. Mỗi công dân phải có nghĩa vụ với xã hội và đồng thời có quyền lợi khi thực hiện nghĩa vụ đó. Không thể nào đòi hỏi quyền lợi từ xã hội mà không thực hiện nghĩa vụ của chính mình. Ngoại trừ những người bị tàn tật không thể thực hiện nghĩa vụ với xã hội, tất cả những cá nhân có đủ khả năng, trí tuệ, sức khỏe phải thực hiện nghĩa vụ của chính mình với xã hội thì mới hưởng được quyền lợi từ việc thực hiện nghĩa vụ đó. Nghĩa vụ đối với xã hội thực hiện qua nhiều hình thức chẳng hạn như nghĩa vụ quân đội, nghĩa vụ đóng thuế, nghĩa vụ tuân hành luật lái xe, luật xã hội v.v….

Bình đẳng cơ hội là bất cứ công việc nào, mọi người đều có quyền xin vào làm và dựa vào khả năng của mỗi người để công ty tuyển chọn. Sự tuyển chọn phải dựa vào khả năng chứ không phải dựa vào quen biết, đút lót. Cơ chế VN hiện giờ là cơ chế độc tài, vô trách nhiệm. Từ hai yếu tố đó, VN hoàn toàn không có bình đẳng về cơ hội, quyền lợi, nghĩa vụ.

Người dân bắt phải đóng thuế nhưng không được quyền lên tiếng về sự chi xài tiền thuế cho lợi ích cuộc sống của người dân. Những đãng (cố ý viết sai dấu cho đúng bản chất) viên không làm tròn nghĩa vụ của mình trong công việc phục vụ xã hội nhưng vẫn tiếp tục hưởng quyền lợi (tiền bạc và quyền hành) vô tội vạ mà người dân không có quyền lên tiếng chống đối cái quyền lợi bất cân xứng này.

Người dân không có cơ hội để xin vào việc lãnh đạo quốc gia chỉ bởi vì không phải là đãng viên. Trong khi đó đãng viên không có khả năng thì lại giao cho những công tác lãnh đạo để rồi sự thiếu khả năng đó đã đưa đất nước trở thành con nợ của quốc tế càng ngày càng phình ra. Các ngân hàng khai phá sản; các công ty quốc doanh, bán quốc doanh khai phá sản để cướp giựt tài sản của những người bỏ tiền vào công ty. Cùng thời gian đó thì lãnh đạo công ty giàu to với nhiều tài sản chìm nổi ở khắp nơi trên thế giới trong khi đó thì dân trắng tay.

Quyền ứng cử và bầu cử

Khi nói đến quyền tự do ứng cử phải hiểu đó là quyền để tham gia vào cơ chế điều hành quốc gia. Cần phải nhấn mạnh là điều hành chứ không phải là lãnh đạo. Lãnh đạo quốc gia phải là người dân, những tổ chức xã hội dân sự, những tổ chức chuyên môn nghiên cứu và đề nghị chính sách, luật lệ trong một cơ chế quốc gia. Tất cả những người nằm trong bộ máy chính quyền là người được bầu cử hay đề cử để làm công việc điều hành chứ không phải là lãnh đạo.

Công việc điều hành này cần phải có sự cạnh tranh để tìm người tài giỏi, có khả năng, có tư cách, có tầm nhìn xa rộng để điều hành bộ máy quốc gia chạy hài hòa với cuộc sống của xã hội. Điều kiện ứng cử phải là những điều kiện hợp lý cho chức vụ điều hành của công việc. Không thể có sự tham dự của các đảng phái trong công việc ứng cử. Sinh hoạt đảng phái cũng là thuộc về sinh hoạt xã hội dân sự cho nên cá nhân ra ứng cử là mang tính cách cá nhân chứ không phải đại diện cho đảng phái hay đại diện cho bất cứ nhóm đoàn nào của xã hội.

Tình trạng trì trệ của cơ chế Mỹ trong tinh thần đảng tranh là thí dụ điển hình để thế hệ tương lai của một Việt Nam tương lai cần học hỏi, tránh đảng tranh xảy ra như tình trạng của Mỹ cho những vụ tranh cử và bầu cử. Thực tế những người Việt tị nạn cộng sản vẫn vướng vào đảng tranh để không nhìn rõ sự thật của vấn đề. Nếu người Việt tương lai không vượt lên tinh thần đảng tranh thì một Việt Nam tự chủ, nhân chủ dân chủ khó mà xảy ra ở tương lai cho dù chế độ cộng sản ra đi.

Bộ máy điều hành quốc gia có nhiều cấp độ và mỗi cấp độ đòi hỏi một số khả năng riêng biệt. Những ai thấy mình đạt được khả năng đòi hỏi thì có thể tham gia vào chuyện tranh cử. Còn nếu những ai đánh giá lầm khả năng của mình, khi thắng cử và không điều hành công việc tốt thì sẽ bị một cơ quan khác, hoặc người dân đánh giá và nếu cần sẽ đuổi người điều hành để tổ chức một cuộc tuyển chọn khác, không cần phải chờ hết nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ chỉ dành cho những người có khả năng. Còn những người không có khả năng và làm trì trệ bộ máy vận hành của bất cứ đơn vị nhà nước nào cần phải thay thế ngay chứ không chờ đợi hết nhiệm kỳ.

Quyền tự do bầu cử là quyền của người dân tìm hiểu rõ từng ứng cử viên để bỏ phiếu cho đúng người, đúng vị trị. Một cơ quan tổ chức bầu cử phải có trách nhiệm gửi những thông tin về khả năng, kinh nghiệm của mỗi ứng cử viên đến toàn dân trong địa phương hay cả nước nếu chức vụ thuộc dạng quốc gia. Bất cứ cá nhân nào trên 18 tuổi, không bị tù tội trong lúc bầu cử đều có quyền bỏ phiếu lựa chọn những người trong danh sách ứng cử. Mỗi cá nhân trong địa hạt bầu cử có thể chọn một người khác ngoài danh sách ứng cử và nếu cá nhân ngoài danh sách ứng cử được nhiều phiếu thì vẫn thắng cử, cho dù không nằm trong danh sách bầu cử. Đây là cuộc bầu cử do người dân chọn thành ra người dân có thể chọn bất cứ ai, ngay cả những người không nằm trong danh sách bầu cử. Tuy nhiên nếu cá nhân này thắng cử thì vẫn phải qua thủ tục xét lại của uỷ ban bầu cử về khả năng, tài năng, nhân cách, tư cách.

Quyền bầu cử và ứng cử là quyền căn bản của mỗi công dân trong việc chọn người tài giỏi vào cơ chế điều hành quốc gia. Bất cứ cuộc bầu cử và ứng cử nào có sự chỉ đạo của một đảng phái chính trị thì cuộc bầu cử và ứng cử đó hoàn toàn không còn tính dân chủ mà là tính đảng chủ. Cuộc bầu cử và ứng cử theo tính đảng chủ là một hình thức bầu cử trá hình, phản dân chủ. Việt Nam hiện giờ hình thức ứng cử và bầu cử theo tính đảng chủ.

Cần phải có một ủy ban bầu cử (hoặc cơ quan lựa chọn người vào bộ máy điều hành quốc gia) lựa chọn hoặc thanh lọc những người ra tranh cử mà không có khả năng, tài năng, nhân cách, nhân phẩm. Điều hành công việc của quốc gia là việc ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều người trong xã hội cho nên cần phải có tiêu chuẩn cao về khả năng, tài năng; phải đạt tiêu chuẩn nhân cách, nhân phẩm.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/05/01/nhan-ban-cuong-thuong-binh-dang-ung-cu-bau-cu/

 

 

Nhân Bản Cương Thường: Kiểm Soát & Trách Nhiệm

Quyền kiểm soát cơ chế cầm quyền, thay đổi cơ chế cầm quyền nếu cần thiết

Trong công việc quản trị công ty, người làm công việc quản trị luôn luôn theo dõi thành quả của công việc mỗi cá nhân trong công ty, đồng thời theo dõi chất lượng của sản phẩm có đạt đúng tiêu chuẩn đặt ra hay không. Nếu phát hiện sản phẩm làm sai tiêu chuẩn thì sự thay đổi lập tức được làm ngay chứ không thể tiếp tục làm ra sản phẩm sai với tiêu chuẩn đã đưa ra.

Trong công việc quản trị đất nước cũng vậy. Tuy không phải là sản xuất ra một sản phẩm nhưng thành quả của công việc quản trị tức là sản phẩm của công việc điều hành đất nước. Khi một cá nhân điều hành đất nước tạo ra nhiều mâu thuẩn bên dưới, không có khả năng để điều hành bộ máy nhà nước từ dưới đi lên và hòa nhịp với đời sống của xã hội thì cá nhân đó, hay bộ máy điều hành đó cần phải thay đổi.

Để làm chuyện này thì sẽ có một cơ quan chuyên môn kiểm soát công việc, thành quả của mỗi đơn vị điều hành quốc gia nhằm mục đích phát hiện ra sai lầm để điều chỉnh cho sớm chứ không phải chờ đợi đến lúc sự thất bại lan tỏa ở phương diện rộng lớn, có thể ảnh hưởng đến nền sinh hoạt của địa phương, của quốc gia. Cơ quan này hoàn toàn độc lập từ bộ máy điều hành quốc gia để tránh việc thiên vị, bao che.

Trong một đất nước dùng Nhân Bản Cương Thường là trung tâm điểm cho các chính sách, lối ứng xử, lối sinh hoạt xã hội thì khó có cơ hội xảy ra một cơ chế vô trách nhiệm. Tuy nhiên, vẫn phải có một cái nhìn vượt lên trên bản tính của Con Người. Con Người luôn luôn bị cám dỗ và chính những cám dỗ đã đưa cho người đi ngược lại những gì mình quan niệm là đúng, là nhân cách. Chính vì sự cám dỗ có thể xảy ra cho bất cứ ai thành ra cái quyền kiểm soát và thay đổi cơ chế cầm quyền (điều hành đất nước) là phải có để gọi là sự bảo kê khi mà những cá nhân trong bộ máy nhà nước vô tình đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường.

Tinh thần nhận lãnh trách nhiệm

Nếu mỗi thành viên trong xã hội có những quyền để bảo đảm tinh thần tự chủ thì không thể nào thiếu vắng tinh thần nhận lãnh trách nhiệm đi kèm theo tất cả những quyền đã được bàn thảo bên trên.

Một cá nhân kết hợp với một cá nhân khác để hình thành lên xã hội thì phải có tinh thần trách nhiệm trong sự kết hợp, cũng như tinh thần trách nhiệm trong cuộc sống sinh hoạt của xã hội đó.

Con người không hề hoàn hảo. Chính sự không hoàn hảo này, mỗi con người sống trong xã hội sẽ phạm sai lầm trong những quyết định của cuộc sống bản thân, những quyết định trong sinh hoạt của nghề nghiệp hoặc lối ứng xử trong xã hội với những người khác.

Nếu thấy mình sai lầm thì phải thực hiện tinh thần trách nhiệm để nhận lãnh cái sai lầm đó hầu sửa đổi ở tương lai. Tinh thần nhận lãnh sai lầm sẽ giảm tốn kém chi phí của thưa kiện. Chuyện thưa kiện sẽ tốn kém không những về tài chính của cá nhân hoặc quốc gia mà còn tốn kém về nhân lực. Chúng ta không thể nào phí phạm tài lực và nhân lực chỉ bởi vì cá nhân không có tinh thần trách nhiệm.

Bất cứ quyền nào được xã hội công nhận phải đi kèm theo tinh thần trách nhiệm để cá nhân không lạm dụng quyền đã được xã hội công nhận. Cần phải có luật pháp để trừng phạt những người không nhận lãnh trách nhiệm trước những tội ác rõ ràng bằng những bản án nặng bởi sự trốn tránh trách nhiệm làm thiệt hại đến tài chính và nhân sự của xã hội trong cơ cấu tòa án.

Lời Kết

Nhân Bản Cương Thường: Nhu Cầu Tự Do được khai triển cho đúng với thực tế của xã hội, của thế giới. Nếu các bạn đọc tài liệu Duy Nhân Cương Thường, các bạn sẽ không thấy Lý Đông A nhắc đến những quyền này. Tuy nhiên trong Duy Nhân Cương Thường có nói đến cái dân chủ ở một phạm vi nhỏ và cái dân chủ đó cần phải diễn đạt cho rõ hơn, thực tế hơn trước bối cảnh xã hội chúng ta đang sống trong đầu thế kỷ 21 này. Trên tinh thần đó, người viết cố gắng triển khai vào thực tế đời sống của thời đại 2000.

Cũng cần phải nắm rõ là tư tưởng Duy Dân của Lý Đông A luôn luôn biến chuyển theo tình hình thực tế của xã hội đang sống. Đây chính là điểm hay của tư tưởng Duy Dân là không cứng nhắc, không bảo thủ mà luôn luôn huyển chuyển theo thực tế của cuộc sống Con Người.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/05/15/nhan-ban-cuong-thuong-kiem-soat-trach-nhiem/

 

 

Nhân Bản Cương Thường: Nhu Cầu Cải Tạo và Bảo Quản Thiên Nhiên (P1)

 

Thiên nhiên hiện hữu trước khi có sự hiện hữu của Con Người. Thiên nhiên trở nên vô giá trị nếu không có sự xuất hiện của Con Người. Tương quan giữa Con Người và thiên nhiên là tương quan hữu tương luôn luôn xảy ra, không ngừng nghỉ, kể từ khi Con Người xuất hiện trên trái đất này. Con Người tác động vào thiên nhiên và thiên nhiên tác động vào Con Người.

Khi Con Người xuất hiện trên quả đất này, thiên nhiên đã cung cấp sự sống cho Con Người. Từ hái những quả thiên nhiên để ăn, săn những con thú ngoài thiên nhiên để cung cấp thực phẩm cho Con Người. Con Người luôn luôn dựa vào thiên nhiên để làm thăng hoa cuộc sống của chính mình.

Do có Con Người, với những sáng tạo của Con Người để Con Người chọn nếp sống từ săn bắn, du mục sang định cư một chỗ và tự mình cải tạo thiên nhiên để làm gia tăng thực phẩm cho nhu cầu của Con Người. Con Người không những cải tạo thiên nhiên trên mặt đất mà cải tạo thiên nhiên dưới lòng đất để sản xuất ra dầu hỏa, khí đốt, chất kim loại nhằm gia tăng cuộc sống của Con Người ngày càng tiến hóa, tiến bộ hơn thời kỳ ăn lông ở lổ.

Chưa bao giờ thế giới nhìn vấn đề bảo vệ thiên nhiên như thời điểm hôm nay bởi Con Người không những cải tạo thiên nhiên để cho cuộc sống tiến bộ mà Con Người đã, đang lạm dụng thiên nhiên để rồi đang hủy diệt thiên nhiên. Con Người cần thiên nhiên để sống còn. Nếu Con Người không bảo vệ thiên nhiên mà hủy hoại thiên nhiên thì loài người trên trái đất này sẽ không còn môi trường để sống và cuối cùng đi đến sự diệt vong.

Nhưng mà thiên nhiên là gì? Chúng ta thường nhìn thiên nhiên là mưa, nắng, gió, không khí, khí hậu, sinh thực vật, sông ngòi, biển cả, núi non, chất khoáng sản dưới lòng đất, lòng biển. Vâng! Đó chính là thiên nhiên chung quanh cuộc sống của Con Người. Còn một cái thiên nhiên khác mà ít ai để ý đó là thiên nhiên trong mỗi Con Người của chúng ta. Những bộ phận trong cơ thể của chúng ta là do sự kết hợp của thiên nhiên (một trứng, một tinh trùng), những nhiệm vụ của mỗi bộ phận trong cơ thể do thiên nhiên tạo ra. Nhịp đập của tim, sự vận hành của tay chân, những dây thần kinh trong cơ thể. Tất cả là thiên nhiên trong Con Người của chúng ta. Chúng ta sanh ra, những cơ năng trong cơ thể chúng ta đã có sẵn, chúng sống với cái cơ thể đã sinh ra đó.

Khi nói đến nhu cầu thiên nhiên thì chúng ta phải hiểu là thiên nhiên sống chung quanh chúng ta và thiên nhiên sống trong chúng ta. Vậy thì chúng ta cần tìm hiểu quan hệ của thiên nhiên với Con Người để từ đó có những phương pháp cải tạo thiên nhiên phục vụ cho cuộc sống Con Người cho thế hệ hôm nay và tương lai.

Thiên Nhiên Trong Cuộc Sống Con Người

Con Người tận hưởng thiên nhiên rất nhiều mà không để ý được cái quan trọng của thiên nhiên ra sao. Thí dụ: không khí chúng ta thở, nước chúng ta uống, thực phẩm chúng ta ăn hằng ngày. Chúng ta nhìn những vấn đề này rất bình thường mà không nhìn rõ sự tương quan của thiên nhiên với cuộc sống của chúng ta.

Thiên nhiên giúp cho Con Người hiện hữu và đồng thời Con Người cải tạo thiên nhiên để làm thăng hoa cuộc sống của chính mình. Từ cuộc sống du mục, đi đó đây săn bắn, hái rau quả tìm thức ăn phục vụ nhu cầu nhu yếu; Con Người đã biết cải tạo thiên nhiên để định cư một địa phương, khai phá rừng để tạo ra những cánh đồng trồng trọt; chăn nuôi tạo ra thức ăn cho chính mình đồng thời tạo cho phong cảnh của thiên nhiên bớt rừng rú, bớt hoang dã. Con Người biết tạo ra lửa để nấu thức ăn thay vì ăn thức ăn sống như loài thú. Đây là sự khác biệt rất lớn giữa Con Người và loài vật. Tuy cả hai đều có bộ óc nhưng bộ óc của Con Người ở tầng cao hơn để tạo ra tư tưởng -- từ đó tạo ra phương cách để cải tạo thiên nhiên phục vụ cho đời sống Con Người. Trong khi đó thì loài thú chỉ dựa vào thiên nhiên để sống mà không biết cải tạo thiên nhiên như Con Người.

Không thể nào tách thiên nhiên ra khỏi cuộc sống Con Người và cũng không thể nào tách Con Người ra khỏi thiên nhiên. Nhân Bản Cương Thường: Nhu Cầu Cải tạo và Bảo QuảnThiên Nhiên có nghĩa là Con Người phải biết sự tương quan này và phải biết cách cải tạo thiên nhiên để phục vụ cuộc sống của Con Người nhưng đồng thời không thể hủy hoại thiên nhiên.

Một quốc gia A có kỷ nghệ cao, có luật bảo vệ môi sinh (thiên nhiên) chặt chẽ quyết định dời chuyển công ty đến một quốc gia B để lợi dụng luật bảo vệ môi sinh lõng lẻo làm ảnh hưởng đến môi trường sống của quốc gia B như nước, không khí thì công ty của quốc gia A đã vi phạm Nhân Bản Cương Thường. Nước và không khí không phải chỉ ở một chỗ mà luôn luôn dy chuyển. Môi sinh xấu ở quốc gia B rồi sẽ đến quốc gia A. Cho dù nước và không khí không đến được quốc gia A nhưng với đạo sống của Con Người, chúng ta không thể nào làm ảnh hưởng môi trường sống của quốc gia khác cho cái lợi ích của công ty mình.

Khi chính quyền của ông Trump rút ra khỏi hiệp ước bảo vệ môi sinh bởi cho rằng luật bảo vệ môi sinh sẽ làm ảnh hưởng đến công ăn việc làm của người Mỹ. Đây là cái nhìn thực tế nhưng không phải là cái nhìn chiến lược có lợi cho Con Người nói chung và người Mỹ nói riêng. Cái thực tế là bảo vệ được công ăn việc làm cho một số người nhưng để rồi phá hoại môi sinh và sự phá hoại này sẽ tốn kém rất nhiều tài lực và nhân lực (hơn cái mất mác công ăn việc làm) của mọi người để cải tạo môi sinh trở lại trạng thái như lúc đầu. Đây chính là chính sách đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường.

Vì quyền lợi của công ty, các công ty vận động các cơ quan quyền lực để đưa ra những bộ luật có lợi cho công ty tiếp tục khai thác dầu, hơi đốt mà không cần biết sự khai thác này ảnh hưởng đến môi sinh ra sao. Những cuộc động đất ở Texas, Oklahoma do kỹ thuật dùng nước và chất hóa học để tạo ra sức ép lấy hơi đốt từ đá làm cho lòng đất bị biến dị, tạo ra những cuộc động đất do chính Con Người tác động. Chưa kể nước dưới lòng đất cũng bị ảnh hưởng. Chính sách tự do cho công ty làm giàu trên thiên nhiên đã vi phạm Nhân Bản Cương Thương.

Tại Việt Nam, các công ty của Trung Quốc, Đài Loan hay Tây Phương vào thành lập để khai thác khoáng sản, tài nguyên; hoặc sản xuất những chất hóa học làm ảnh hưởng đến môi trường sống của Con Người như nước, không khí, biển, sông ngòi. Đây chính là sự vi phạm trắng trợn vào Nhân Bản Cương Thường và được nhà cầm quyền Việt Nam bảo trợ, ủng hộ cho chuyện này.

Nếu Con Người sống nhờ vào thiên nhiên và nếu Con Người tiếp tục khai thác thiên nhiên một cách vô tội vạ thì đến một lúc nào đó, thiên nhiên chẳng còn để cho Con Người được sống như đã từng được sống kể từ khi có sự xuất hiện của Con Người trên trái đất này. Nếu không đặt nhu cầu cải tạo thiên nhiên là nhu cầu cần thiết thì chính Con Người đã tự giết lấy chính mình ở một tương lai sắp đến.

Cần phải biết cải tạo thiên nhiên để phục vụ đời sống của Con Người tương lai chứ không phải phục vụ đời sống của Con Người ở hiện tại mà bỏ mặc tương lai ra sao. Cải tạo thiên nhiên gồm điều chỉnh lại những cái mà Con Người đã làm hư hỏng thiên nhiên trong quá khứ. Mà để làm điều này, tất cả những chính sách từ kinh doanh đến khai thác tài nguyên dưới lòng đất, đến phòng thí nghiệm cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ để phục vụ Con Người và đồng thời không phá hoại thiên nhiên mà Con Người sống trong đó.  Đây là sự chọn lựa phải dứt khoát bởi nếu không, trái đất này trở thành một mảnh đất chẳng còn sự sống của bất cứ loài vật nào gồm cả Con Người.

Bất cứ phát minh nào cũng cần phải duyệt xét thật kỹ là trên đường dài, phát minh đó ảnh hưởng đến đời sống của người ra sao. Nếu vì quyền lợi ngắn hạn mà không nhìn cái hại dài hạn thì thế hệ hiện tại đã vô tình giết đi thế hệ tương lai khi thiên nhiên đã bị lạm dụng và thiên nhiên bị biến dạng để không còn phục vụ đời sống của người như thiên nhiên đã.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/05/15/nhan-ban-cuong-thuong-nhu-cau-cai-tao-va-bao-quan-thien-nhien-p1/

 

 

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

Bình Đẳng

Ghi Chú NL: Bình đẳng là một chủ đề phải được nhìn với nhiều góc cạnh khác nhau, với cái nhìn tổng thể thì mới thấy được thế nào gọi là bình đẳng. Bài viết đã đạt được cái nhìn nhiều góc cạnh và tổng thể. Cuối bài nói đến một cơ chế chính trị. Thực ra rất nhiều người hiểu lầm về ý nghĩa Chính Trị. Với nhà tư tưởng Lý Đông A thì ông nhìn “chính trị là thiết kế và chấp hành nhân sinh”. Nhưng để làm được chuyện đó cần phải có những Con Người biết tự làm chủ lấy con người của chính mình. Khi tự mình làm chủ được mình thì sẽ hiểu rõ bình đẳng là gì, ra sao, làm cách nào để thực hiện bình đẳng ở chính bản thân trước khi áp dụng vào xã hội.

 

Một khái niệm tưởng chừng như đơn giản nhưng thật sự lại rất phức tạp, vì rất khó để có thể phân tích rạch ròi về nó, nó phụ thuộc vào sự nhận thức của con người qua từng thời đại, qua kiến thức được giáo dục đúng đắn hoặc bị nhồi nhét một cách sai lệch. Nó cũng phụ thuộc vào phẩm chất cá nhân, và yếu tố này quan trọng nhất, bởi vì con người trong một xã hội không có tính nhân văn, không loại bỏ hoặc giảm bớt tính tham muốn thì họ sẽ luôn mong muốn mọi thứ tốt đẹp cho bản thân, mặc kệ những cá thể khác ngoài bản thân họ.

Tham muốn là vấn đề cơ bản làm mất đi sự bình đẳng, tham muốn sẽ làm cho con người muốn tước đoạt của người khác, điều này có thể thấy được ở một cá nhân, ở một vài cá nhân, ở một tập thể, một xã hội, hoặc cũng có thể xảy ra cho cả một quốc gia.

Bình đẳng là sự ngang hàng nhau về mọi mặt giữa mọi cá thể đã tồn tại, đang tồn tại và sẽ tồn tại. Còn ngang hàng nhau về cái gì thì phải xét nó theo từng thời đại, không gian và thời gian. Tùy theo nhu cầu của các cá thể đó là gì? Có thể là về vật chất, tinh thần, quyền lực, địa vị, về tín ngưỡng,...Vấn đề đặt ra, như thế nào mới thật sự là bình đẳng?

Bình đẳng vốn là một quy luật khách quan trong trời đất. Nó không phụ thuộc vào việc con người và vạn vật sinh ra hay chết đi, nó vẫn tồn tại nhất như. Chỉ có con người không nhận thức rõ, hoặc có nhận thức được thì lại không làm được chỉ vì tham lợi cá nhân.

Bình đẳng chính là chân lý trong thiên địa.

Con người thực tại, hay những sinh vật nhỏ bé đều cần sự bình đẳng để mà tồn tại. Cho đến cây cỏ cũng như vậy. Bởi thế mà xã hội loài người từ khi xuất hiện trên trái đất này, họ luôn tìm kiếm sự bình đẳng. Bởi thế mà các tôn giáo, với giáo lý có trăm nghìn kinh thánh, trăm nghìn pháp môn nhưng mục đích cuối cùng tất cả cũng chỉ có một, đó là làm sao chỉ rõ cho chúng sinh nhìn thấy bản chất thật, một bản nguyên nhất như để chứng minh được một điều duy nhất, là tất cả chúng sinh có đồng bản chất, và đó chính là sự bình đẳng tối thượng. Cũng cần hiểu rõ, bình đẳng là mỗi cá thể được tạo các điều kiện ban đầu cơ bản như nhau, có các quyền đặc định cơ bản như nhau, còn phát triển thế nào tùy vào năng lực mỗi cá nhân, chứ không phải "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu" là một lý thuyết dùng để u mê con người, vì con người ai cũng có lòng tham.

Xã hội đa nguyên tự nhiên là kiến trúc xã hội phân tầng cơ bản, ở đây không đề cập đến phân chia giai cấp theo "định kiến áp đặt xã hội". Đa nguyên tự nhiên là sự khác nhau giữa mỗi cá thể về mọi mặt trong xã hội, nó xảy ra cho cả vũ trụ chứ không chỉ riêng với con người.

Hai vấn đề khác nhau như vậy. Chính vì vậy, một thể chế chính trị phải hiểu rõ thế nào là đa nguyên tự nhiên và thế nào là bình đẳng để áp dụng cho đúng, không nhập nhằng để rồi tạo ra bất công giữa người với người.

Con người từ khi xuất hiện đã tìm kiếm sự bình đẳng như là một nhu cầu cấp thiết. Bằng các hình thức xã hội khác nhau, họ lập nên một xã hội có pháp quyền để quản lý lẫn nhau, nhằm tạo ra sự công bằng xã hội. Vậy nên bình đẳng là một sự tìm kiếm xuyên thời gian. Đã có bao nhiêu cao nhân đã thiết lập khái niệm về nó, cố gắng trao truyền sự nhận thức của họ đến với tầng lớp còn tăm tối nhằm khai sáng, tạo dựng một xã hội công bằng.

Trang Tử (369 - 298 TCN), một triết gia của Đạo giáo, người kế tục của Lão Tử, ông đã từng thiết lập khái niệm về sự bình đẳng rất rộng lớn, sánh tầm Thánh nhân:

"Ta và trời đất cùng sinh

Ta và muôn vật sự tình chẳng hai"(*)

Thấy khái niệm này, sẽ không ít trong chúng ta cảm thấy chấn động vì nó, một sự so sánh ngang thiên địa, nhưng nếu có thể cảm nhận, ta hiểu được khái niệm này hoàn toàn bình thường, vì vốn sự bình đẳng nó phải như thế.

Trở lên thời cận đại, ở thế kỷ 18, với bối cảnh một nước Nhật còn ở chế độ phong kiến, phân chia giai cấp quyền quý và nô lệ thì xuất hiện một bậc "Khai quốc công thần'', một "Voltaire của Nhật Bản" - Fukuzawa Yukichi. Vốn xuất thân trong một gia đình võ sĩ thấp kém, và cũng chính vì nhận thấy được bình đẳng là điều tất yếu, phải áp dụng nó vào xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ thì mới cứu rỗi được dân tộc. Cho nên, cả đời của Fukuzawa Yukichi, đi đến bao nhiêu đất nước bên trời Tây để học hỏi kiến thức, làm bao nhiêu việc thần kỳ cho đất nước Nhật Bản cũng chỉ là tựu trung vào việc khai sáng sự học để gầy dựng sự bình đẳng trong xã hội.

"Trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra người đứng dưới người."

Chỉ với câu nói này thôi, Fukuzawa Yukichi đã làm chấn động, bàng hoàng bao nhiêu con dân Nhật Bản lúc bấy giờ, làm thức tỉnh cả một dân tộc, và sau đó là một xã hội Nhật Bản hiện đại hình thành và phát triển vượt bậc.

Chỉ với câu nói này thôi, mà cuốn "Khuyến học" của ông đã trở thành cuốn sách gối đầu của người dân Nhật lúc bấy giờ. Ta không luận bàn đến quan điểm về "nguồn gốc" của con người mà ông đưa ra đúng hay chưa, nhưng quan trọng nhất là ông đưa ra khái niệm "bình đẳng" để khai sáng, vậy là đủ. Và ông lại tự hỏi rằng, vậy điều gì tạo ra sự khác biệt đó? Điều gì tạo ra sự bất bình đẳng đó? Và câu trả lời, đó chính là "HỌC VẤN VÀ TRI THỨC". Chính sự học đã tạo nên sự cách biệt, con người ngu dốt sẽ dẫn đến nghèo hèn, thấp kém.

Từ sự dẫn dắt đó của ông, người dân Nhật Bản thời bấy giờ bắt đầu nhận thức được quyền lợi của họ về giai cấp. Họ nhận thấy rằng tại sao họ cũng là con người, họ lại phải chịu đựng kiếp sống thấp kém, nai lưng làm công cho giai cấp thống trị hưởng thụ đặc quyền đặc lợi. Và họ nhận thức được vấn đề, chính là mỗi người phải tự nâng cao tri thức, và Fukuzawa Yukichi đã hướng dẫn cho họ học những gì, học những kiến thức gì để có thể tái thiết xã hội Nhật Bản, song song đó, ông vẫn luôn xem trọng đạo đức. Ông dạy họ thực hiện sự bình đẳng, nhưng bình đẳng phải đảm bảo không phương hại đến quyền lợi của người khác:

"Mọi ham muốn không làm ảnh hưởng đến người khác đều là thiện"

"Dân ngu tự chuốc lấy chính sách bạo tàn".

"Có người dân nào lại mong muốn một chế độ chính trị tàn bạo?

Có người dân nào lại mong muốn cho đất nước kém phát triển?

Có người dân nào lại mong cho nước mình bị ngoại bang khinh miệt?".

Đất nước Nhật Bản đã phát triển như chúng ta đã thấy, nói về vị trí địa lý, về tài nguyên thiên nhiên, về chỉ số dân số trẻ (dân số vàng), Nhật Bản đều thua xa Việt Nam chúng ta, không chỉ Nhật Bản, mà các quốc gia lân cận Việt Nam, về các chỉ số trên, cũng đều không thuận lợi như Việt Nam, vậy tại sao họ lại có xã hội với nền kinh tế, giáo dục phát triển và tự do tôn giáo được như vậy? Tựu chung, lại cũng chính vì cơ chế CHÍNH TRỊ.

Chính trị là bộ máy vận hành các cơ chế, chính sách để ổn định xã hội và phát triển quốc gia. Nếu cơ chế vận hành sai mục đích do nhận thức kém, hoặc những người cầm trịch cố tình lèo lái để nắm lấy quyền lực vì lợi ích cá nhân, thì sẽ đưa đến hậu quả lớn nhất là người dân trở thành nô lệ cho bộ máy cầm quyền này, mọi lợi ích chung đáng lẽ mỗi công dân sẽ được hưởng trở thành lợi ích nhóm hoặc cá nhân.

Vì vậy, cơ chế chính trị quyết định tất cả. Thiết chế một cơ chế chính trị vì dân tộc, vì lợi ích quốc gia và có thể tồn tại, hòa nhập với văn minh thế giới là mục tiêu cơ bản. Ngoài ra, nó phải thể hiện được đặc trưng mỗi dân tộc, dựa vào nguồn gốc lịch sử, văn hóa, chủng tộc của mỗi tộc người. Nhân bản, hướng thượng, xã hội bình-hòa, giữ được căn cốt của tổ tiên là mục tiêu cốt lõi. Hai mục tiêu căn bản và cốt lõi này phải hòa quyện được với nhau thì mới kiến thiết được một đất nước hưng thịnh.

Chú thích(*): Trang Tử - Nam Hoa Kinh - Nội Thiên - Tề Vật Luận.

HUỲNH THỊ TỐ NGA

Mar 27, 2024

Nguồn: https://nganlau.com/2024/04/24/binh-dang-2/

 

Nhân Bản Cương Thường: Quyền Im Lặng & Tự Do Ngôn Luận

 

Quyền im lặng

Quyền im lặng được hình thành và được công nhận khi mà tất cả những tranh chấp được giải quyết qua hệ thống pháp luật. Một người giết người đứng trước quan tòa, cá nhân này có quyền không lên tiếng nói của chính mình trước vụ án. Cá nhân này có quyền không trả lời những câu hỏi của cơ quan điều tra hoặc luật sư nếu những câu hỏi đó không có lợi cho chính mình bởi mình không hiểu rõ luật, từ đó câu trả lời đôi khi vô tình trở thành một cớ để cơ quan điều tra buộc tội chính mình.

Quyền im lặng là quyền của một công dân khi công dân đó bị cơ quan điều tra của bộ máy cầm quyền đưa ra tòa thì cá nhân đó có quyền từ chối trả lời bất cứ câu hỏi nào của cơ quan điều tra dính dáng đến cá nhân bị kết tội. Cơ quan điều tra muốn kết tội bất cứ cá nhân nào thì phải tìm bằng chứng, lời nói từ những cá nhân khác chứ không thể bắt buộc cá nhân bị cáo trả lời những câu hỏi mà những câu hỏi đó có thể làm hại đến bản thân của bị cáo vì không hiểu rõ luật.

Trong những cuộc lựa chọn bồi thẩm đoàn cho vụ kiện hình sự, luật sư của cả hai bên và luôn cả vị thẩm phán luôn luôn nhắc nhớ các bồi thẩm đoàn tương lai là bị cáo có quyền im lặng và cái quyền im lặng đó không có nghĩa là bị cáo có tội -- mà là vì một lý do nào đó, bị cáo không muốn đứng trước tòa để luật sư chất vấn trước mặt các bồi thẩm đoàn vì sự trả lời của bị cáo có thể dùng để kết tội chính đương sự.

Quyền im lặng chỉ áp dụng cho những người bị kết tội nhưng những người không bị kết tội hay còn gọi là nhân chứng thì không có quyền này. Là một công dân phải có trách nhiệm trong việc hợp tác với cơ quan điều tra hầu tìm ra sự thật trong việc điều tra những tội ác xảy ra trong xã hội. Chính quyền sẽ không hoàn thành nhiệm vụ nếu không có sự hợp tác từ người dân, đặc biệt là nhân chứng cho những vụ phạm pháp. Nhân chứng cho vụ án cần phải được luật pháp bảo đảm để không bị hành hung từ bị cáo thì lúc đó nhân chứng mới đủ an tâm để hợp tác với cơ quan điều tra.

Nếu nhân chứng cũng là tội phạm trong vụ án mà cơ quan điều tra chưa biết thì nhân chứng có quyền sử dụng Quyền Im Lặng này. Bất cứ nhân chứng nào sử dụng quyền im lặng thì cơ quan điều tra phải có trách nhiệm điều tra từ những nguồn khác trước khi có đầy đủ bằng chứng để kết tội nhân chứng là tội phạm thứ hai trong vụ án.

Quyền Tự Do Ngôn Luận

Ngay từ thời Con Người xuất hiện trên trái đất này, quyền tự do ngôn luận đã xuất hiện từ đó. Cho dù một người câm không nói được, hoặc Con Người thời nguyên thủy chưa có tiếng nói mà chỉ trao đổi qua dấu hiệu, ký hiệu; sự trao đổi qua ký hiệu này nói lên cái quyền tự do ngôn luận của Con Người đã có ngay thời có sự xuất hiện của Con Người trên trái đất này.

Tự do ngôn luận không nhất thiết là phát biểu ý kiến của chính mình bởi nếu là người câm thì làm sao họ có thể phát biểu ý kiến. Vậy thì quyền tự do ngôn luận phải được hiểu ở một dạng rộng, tổng thể -- nghĩa là bất cứ cá nhân nào sống trên trái đất này đều có quyền tự do ngôn luận bằng phát biểu ý kiến qua lời nói, chữ viết, hoặc hành động biểu tình để bày tỏ quan điểm của mình cho một vấn đề nào đó mình quan tâm trong đời sống của xã hội. Chính quyền tự do ngôn luận này đã làm thay đổi xã hội Con Người ngày càng được tiến hóa hơn, hướng thượng hơn.

Chính quyền tự do ngôn luận này, xã hội loài người thấy những cái bất công trong cuộc sống; những phong tục, tập quán bất công từ cha ông để lại và từ đó xã hội hiện tại đòi hỏi thay đổi để tạo ra một xã hội công bằng hơn, hướng thiện hơn.

Hãy lấy thí dụ câu nói “trai năm thê bảy thiếp, gái vỏn vẹn một chồng”. Chính cái quyền tự do ngôn luận mà Con Người của thời đại 2023 cho rằng câu nói trên đã không còn hợp thời; câu nói trên đã đi ngược lại cái đạo lý một vợ, một chồng. Chính quyền tự do ngôn luận này đã tạo ra những cuộc thảo luận để tìm hiểu và làm sáng tỏ những vấn đề mà thời đại trước đó đã chưa hiểu rõ -- để rồi những luật lệ, phong tục đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường của Con Người cần phải thay đổi cho phù hợp với thực tế của thời đại.

Vậy thì bộ luật 258 của nhà cầm quyền Việt Nam để giam những người bất đồng chính kiến là đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường. Câu hỏi được đặt ra là thế nào gọi là lợi dụng quyền tự do ngôn luận?

Để trả lời câu hỏi này cần phải nhìn vào thực tế cá nhân phát biểu những điều gì. Nếu cá nhân nào nói lên sự thật của xã hội, nói lên cách làm việc vô trách nhiệm của bộ máy cầm quyền và kêu gọi mọi người cùng lên tiếng thì cá nhân đó đã sử dụng quyền tự do ngôn luận đúng chỗ chứ không phải vi phạm quyền tự do ngôn luận. Khi cá nhân phát biểu ý kiến để xây dựng một xã hội lành mạnh, dựa vào thực tế thối nát của xã hội hiện tại để kêu gọi mọi người cùng lên tiếng thay đổi -- thì không thể nào gọi là vi phạm quyền tự do ngôn luận. Trái lại chính nhà cầm quyền VN đã vi phạm quyền tự do ngôn luận khi họ ra bộ luật 258; chính tòa án tại VN đã vi phạm quyền tự do ngôn luận khi chính họ dựa vào luật đó để bỏ tù những cá nhân sử dụng quyền tự do ngôn luận đã có từ thời nguyên thủy của loài người.

Bất cứ cá nhân nào nằm trong vị trí cầm quyền thì cá nhân đó phải chịu sự phán xét, phê bình của người dân trên cái trách nhiệm mà cá nhân đó nhận lãnh. Sự phán xét, phê bình có thể diễn tả qua nhiều hình thức như là biểu tình trước trụ sở làm việc; hoặc dựa vào câu nói, việc làm của cá nhân cầm quyền để diễu cợt làm cho mọi người cười; hoặc tố cáo những hành động tham nhũng của từng cá nhân trong bộ máy cầm quyền. Đây không phải là vi phạm quyền tự do ngôn luận mà là sử dụng quyền tự do ngôn luận để xã hội có một bộ máy cầm quyền làm việc rõ ràng, minh bạch, chịu trách nhiệm trước dân chúng.

Những ai sử dụng quyền tự do ngôn luận để nói láo, vu khống, xuyên tạc, bôi xấu người khác mà không có chứng cớ thì đã đi quá giới hạn của quyền tự do ngôn luận. Trong trường hợp này, cá nhân bị bôi xấu có quyền thưa kiện người bôi xấu mình nếu sự bôi xấu đó có ảnh hưởng đến sự sinh hoạt kinh tế trong đời sống của chính mình. Còn như nếu sự bôi xấu không ảnh hưởng đến kinh tế của chính mình thì cá nhân bị bôi xấu sử dụng quyền tự do ngôn luận thanh minh những điều không thật về mình cho mọi người hiểu rõ.

Những ai sử dụng quyền tự do để kêu gọi người khác hãm hại cá nhân khác, cướp tài sản của người khác, hoặc gây khích động từ những cá nhân khác tức là những cá nhân đó đã vi phạm quyền tự do ngôn luận.

Tự do ngôn luận để trao đổi, học hỏi, làm cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn, thăng tiến hơn. Những khích động để tạo ra bất ổn trong xã hội là điều không thể chấp nhận. Cần phải phân tích rõ sự bất ổn trong xã hội là gì. Khi một bộ máy cầm quyền độc tài, đàn áp dân chúng, giết người giữa ban ngày tại đồn công an và người dân biểu tình đòi hỏi sự minh bạch, có trách nhiệm của bộ máy cầm quyền thì người dân hoàn toàn không hề tạo sự bất an cho xã hội, trái lại người dân đóng góp tiếng nói của mình vào việc xây dựng một xã hội, một bộ máy cầm quyền có trách nhiệm hơn.

Cần phải xác định rõ là hiến pháp của Hoa Kỳ công nhận quyền tự do ngôn luận và chính quyền không có quyền đưa ra luật để cấm quyền này. Tuy nhiên nếu là công ty thì công ty có quyền giới hạn quyền tự do ngôn luận này vì nhiều lý do. Cho nên khi các mạng xã hội ngăn cấm Trump và một số nhân vật khác sử dụng mạng xã hội thì đây hoàn toàn không hề vi phạm hiến pháp. Ai đó sử dụng mạng xã hội do tư nhân lập ra thì phải theo đúng luật lệ họ đặt ra.

Quyền tự do ngôn luận của các nhân vật thuộc dạng quần chúng (những cá nhân lớn nằm trong bộ máy cầm quyền, những cá nhân có danh tiếng trong xã hội hay ảnh hưởng đến mạng xã hội, những cá nhân làm công việc truyền thông, hay những cá nhân gọi là chuyên nghiệp v.v…)  cũng cần phải xét lại bởi nếu một cá nhân, trong phạm vi của một buổi tiệc, có thể nói một điều nào đó sai sự thật thì kết quả có thể không thiệt hại nhiều. Nhưng một cá nhân của quần chúng, lợi dụng quyền tự do ngôn luận để nói những điều không thật (biết là không thật hoặc không có bằng chứng để xác nhận là sự thật) thì sẽ tạo ra nguy hiểm rất lớn cho xã hội.

Hình ảnh bạo loạn tại căn nhà Quốc Hội, với mục đích lật đổ kết quả bầu cử năm 2020 bởi những lời tuyên truyền của Trump là bầu cử có gian lận -- là thí dụ điển hình của nhân vật dạng quần chúng sử dụng quyền tự do ngôn luận qua sự nói dối, nói sai sự thật đã tạo ra sự bất ổn trong xã hội, ảnh hưởng đến sinh mạng và nền dân chủ của quốc gia. Cần phải có bộ luật để trừng phạt những cá nhân lạm dụng quyền tự do ngôn luận để tạo ra sự bất ổn trong xã hội.

Qua sự kiện bạo loạn ngày 6 tháng 1 năm 2021, cơ quan điều tra đặc biệt của Bộ Tư Pháp đã truy tố Trump về tội lật đổ cơ chế dân chủ đã được hình thành trên 200 năm -- không phải qua lời nói dối của kết quả bầu cử của Trump mà qua hành động để thay đổi kết quả bầu cử với sự hợp tác của vài cá nhân thân cận với Trump để làm áp lực các tiểu bang và Mike Pence, hầu thay đổi kết quả bầu cử 2020. Đến giờ phút này Trump vẫn cho rằng bầu cử năm 2020 là gian lận mà chính trong thâm tâm của Trump biết rằng điều ông nói với công chúng là giả dối nhưng ông vẫn nói bởi đấy là con người thật của Trump: lợi dụng kẽ hở của luật pháp để đạt quyền lợi cá nhân, sẵn sàng gian dối để chạy trốn tội khi vi phạm và bị bắt quả tang trong việc lưu trữ tài liệu mật sau khi rời khỏi chức vụ Tổng Thống.

Một Việt Nam tương lai cần phải tôn trọng quyền tự do ngôn luận nhưng đồng thời có những luật lệ để tránh các vị đại diện dân cử, các vị có chức quyền và tiếng tâm trong xã hội nói dối, làm hại đến xã hội thì trường hợp này là lạm dụng quyền tự do ngôn luận, sẽ bị trừng phạt thật nặng để làm tấm gương cho người khác.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/04/01/nhan-ban-cuong-thuong-quyen-im-lang-tu-do-ngon-luan/

 

 

Nhân Bản Cương Thường: Nhu Cầu Hợp Tác

  Thế giới của hôm nay là thế giới mở. Gánh nặng ô nhiễm môi trường không những ảnh hưởng đến quốc gia giàu mà gồm cả những quốc gia nghèo, ...