6. Dân chủ, con người và xã hội
Con người sống cần xã hội
và xã hội xuất hiện là do con người. Khi con người ý thức về bản thân (tự kỷ) cần
có sự kết hợp để nương tựa lẫn nhau (ỷ tha) và nhu cầu gia đình, làng xã... dẫn
đến (động tha) xã hội, dân tộc, quốc gia.
Mỗi người có ý kiến, tư
tưởng riêng. Xã hội là nơi quy tụ các ý kiến của mọi người để thành lập quốc
gia, chính quyền. Thời đại quân chủ là giao trách nhiệm cho một người (vua). Thời
kỳ dân chủ là dân chọn người đại điện điều hành sinh hoạt xã hội.
Sự phát triển của khoa học
đòi hỏi giáo dục chuyên môn. Người dân chạy theo việc làm thì cần có kiến thức
chuyên môn. Khoa chính trị học (political science) và ngành luật phát triển vì
luật pháp chi phối mọi ngõ ngách đời sống con người. Nhưng chính trị liên quan
đến mọi mặt sinh hoạt xã hội và luật pháp một khi ban hành thì không còn thích ứng
với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội.
Cơ cấu tam quyền phân lập
không còn hữu hiệu nữa khi hiến pháp của Mỹ 300 năm trước không còn thích hợp với
tình trạng xã hội hiện tại. Hành pháp và lập pháp rơi vào tranh chấp lưỡng đảng.
Hệ thống tòa án không theo kịp tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, địa lý chính trị,
dân số thay đổi.
Chính quyền do các đảng
chính trị thay nhau điều hành nhưng không tránh khỏi những kẻ bất tài, tham vọng
đã khuynh đảo xung đột xã hội về chủng tộc, kinh tế, tôn giáo, văn hóa để thủ lợi
và làm nền dân chủ suy thoái. Khi căn bản của sinh hoạt dân chủ là lợi nhuận
kinh tế thì cuối cùng dẫn con người chạy theo lợi mà quên các nguyên tắc (luật
lệ) sinh hoạt chính trị để duy trì trật tự xã hội.
Khi cường quốc như Mỹ
rơi vào hỗn loạn thì thế giới chịu ảnh hưởng chung. Mỹ có sức mạnh về địa lý, tập
hợp nhiều sắc dân, chủng tộc nhưng khi giới tư bản thao túng chính quyền qua bầu
cử thì không còn là dân chủ thực sự nữa. Cử tri chọn lầm đại diện thì vô phương
cứu chữa, phải chờ đến kỳ bầu cử và cứ thế dân bị lừa dối trong sinh hoạt dân
chủ không lối thoát.
Để bảo vệ dân chủ là
quân đội do mọi người dân tham dự (tình nguyện hay quân dịch) nhưng nếu dân làm
tròn nghĩa vụ quân sự để bảo vệ sinh hoạt dân chủ thì các chính trị gia, luật
gia lại tìm cách luồn lọt các nguyên tắc dân chủ để trục lợi. Khi giới truyền
thông còn độc lập thì còn có thể điều tra các sai lầm của chính quyền nhưng khi mạng xã hội xuất hiện
làm giới truyền thông suy yếu và bị tư bản thống trị thì sinh hoạt dân chủ dần
dần bị thiên vị theo ý chủ nhân.
Nền dân chủ rạn nứt khi
ý kiến của đa số dân không được chính quyền nâng đỡ mà chính quyền chạy theo
thiểu số có thế lực. Xã hội thành hình với cơ cấu chính quyền để hoạt động là
do người dân đóng thuế. Nhưng theo thời gian thì các nhà chính trị tìm cách vượt
qua sự kiểm soát của dân để trở nên bất khả xâm phạm (above the law) khi biết rằng
sự kiện cáo, tranh tụng mất nhiều thời giờ và tốn kém (chỉ có dân giàu mới kham
nổi) thì giới ưu tú (elite) xuất hiện dưới nhiều dạng để đóng kịch "dân chủ"
che mắt dân qua bầu cử. Có thể nào gọi là "dân chủ" khi chính quyền
chịu ảnh hưởng, chi phối của giới nhà giàu. Khi người dân biết chính quyền
thiên vị mà không có người lãnh đạo, không có lối thoát thì dù có nổi loạn thì
chính quyền mới cũng đi vào con đường cũ (Ai Cập, Nicaragua, Venezuela,
Algeria, Tunisia).
Vậy có đường lối, chính
sách, lý thuyết nào giúp người dân thực hiện dân chủ theo đúng ý nghĩa
"dân làm chủ"?
7. Con người tự chủ
Thế nào là con người tự
chủ?
Là người tự biết mình (tự
kỷ), biết vai trò của mình trong xã hội và xã hội đối với cá nhân (tự kỷ-động
tha-ỷ tha). Vì mỗi cá nhân không thể tham dự mọi vai trò trong xã hội nên phải
chọn đại diện. Nhưng tương quan giữa người dân (cử tri) và đại diện phải là
tương quan hai chiều (đối lập thống nhất) và bình đẳng vì một khi đại diện đắc
cử và trở thành "bất khả xâm phạm" thì khi họ phản bội cử tri (đổi đảng,
chạy theo các đại công ty) thì người dân bất lực.
Khi một cá nhân chọn một
vai trò, vị trí trong xã hội (việc làm) thì phải có trách nhiệm đối với bản
thân và đối với xã hội (tập thể) và ngược lại, tập thể (cơ quan, hội đoàn, tổ
chức, hãng, xưởng, công ty ...) cũng vậy. "Cá nhân và tập thể đối lập thống
nhất" ở hai vị thế khác nhau nhưng phải hướng về cùng một mục đích chung
(hỗ tương nguyên nhân). Đó là nguyên tắc nhưng cũng cần có cơ phận X để kiểm
soát khi một trong hai vi phạm nguyên tắc. Cơ phận X có thể là cơ chế "đan
quyền"?
8. Xã hội dân chủ
Nền kinh tế thị trường
(tư bản) có khuynh hướng nâng đỡ những kẻ có khả năng làm giàu ngụy danh dưới
chiêu bài dân chủ, tự do lựa chọn nhưng không nói đến những người nghèo, thiếu
khả năng (tinh thần hay vật chất) cạnh tranh bị đào thải hay tuột dốc trong xã
hội và cho rằng họ đã không chịu khó, siêng năng làm việc. Khi chính quyền có
khuynh hướng giúp đỡ lớp người này thì bị gán khuynh hướng xã hội chủ nghĩa
(socialist) vì biện pháp tăng thuế. Xã hội chủ nghĩa thường bị đồng hóa với cộng
sản chủ nghĩa (độc tài chuyên chính) là khi chính quyền bao thầu mọi sinh hoạt
xã hội kể cả đời sống của cá nhân. Trong khi xã hội chủ nghĩa (đa đảng) chỉ là
trường hợp chính phủ đánh thuế nặng trên các công ty, lương cao để chi phí cho
các dịch vụ xã hội và dân nghèo trong khi giới tư bản vẫn được kinh doanh làm
giàu theo kinh tế thị trường.
Sự xuyên tạc (hay cố
tình tạo nhầm lẫn) giữa xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là do giới truyền
thông cố ý không giải thích sự khác biệt vì lợi nhuận của họ đến từ các công ty
trả tiền quảng cáo. Nếu dân chúng ủng hộ xã hội chủ nghĩa thì các công ty sẽ bị
đánh thuế nặng và giới truyền thông bị thiệt hại. Như vậy tự do ngôn luận, tự
do báo chí đã góp phần "phản bội" sinh hoạt dân chủ.
Nếu người dân có trách
nhiệm góp phần xây dựng chính quyền hàng dọc (từ địa phương đến trung ương) thì
xã hội có nhiệm vụ củng cố hàng ngang theo ngành nghề chuyên môn (cơ năng bản vị).
Sự kết cấu Tung (hàng dọc) Hợp (hàng ngang) tạo nên màng lưới sinh hoạt được điều
khiển bởi chính quyền.
Xã hội cần có luật pháp
được thành hình bởi 3 mặt: làm luật (lập pháp), thi hành luật (hành pháp) và
phân xử hay giải thích luật (tòa án). Nền dân chủ Mỹ suy thoái bởi (1) cá nhân
thiếu tự kỷ, (2) tập thể (đảng, công ty, giới truyền thông, công đoàn, tôn
giáo) thiếu đối lập thống nhất, (3) tương quan cá nhân và tập thể (hỗ tương
nguyên nhân).
Ý niệm hay cơ chế
"đan quyền" các đơn vị (bản vị) đoàn thể quy tụ dân chúng các cấp địa
phương (tỉnh, quận, xã) góp ý giải quyết vấn đề mà các cơ quan chính quyền (do
dân bầu) không thực hiện đúng ý dân.
Đan quyền không dựa vào
hiến pháp mà dựa vào ý dân trực tiếp giải quyết bất đồng xã hội. Để thực hiện
đan quyền thì cơ cấu hành pháp kiêm luôn lập pháp (viết luật) nhưng quyết định
phê chuẩn là do toàn dân phê chuẩn với sự giúp đỡ của 2 cơ quan: Hành Chính Viện
đề nghị các luật cần thiết và Phê Phán Viện có nhiệm vụ phân tích, phê bình các
dự luật. Hai viện này là cơ quan độc lập không chịu ảnh hưởng của Tổng Thống
hay Quốc Hội và tránh được sự mua chuộc của giới vận động từ các công ty, kỹ
nghệ muốn khuynh đảo luật pháp.
9. Công bằng xã hội
Khi công lý không được
thực hiện thì cân bằng xã hội không có và dẫn đến hỗn loạn. Nền dân chủ Mỹ dựa
vào bộ Tư Pháp và hệ thống tòa án nhưng cả hai đều không kiểm soát được nhau (hỗ
tương nguyên nhân) và thiếu biện pháp can thiệp khi một bên đi qua trớn mà giới
Lập Pháp (Quốc Hội) và dân không thể làm gì được.
Người dân là đáy tầng của
mọi sinh hoạt xã hội. Xã hội càng phức tạp thì cần càng nhiều cơ quan phụ trách.
Khi được điều khiển bởi các chuyên gia (xã hội, y tế, giáo dục, kinh tế, chính
trị...) thì lại thiếu hiểu biết về các các tương quan liên hệ (hỗ tương nguyên
nhân). Do đó người dân chịu đựng các bất công xã hội sẽ không được đáp ứng bởi
chính quyền thiếu khả năng thích ứng với các biến chuyển xã hội vì guồng máy
hành chính quen với thủ tục (red tape).
Khi một ông Tòa ở quận A
xử kẻ giết người với án treo trong khi ở quận B ông tòa khác xử 3 đời tù chung
thân thì người dân và gia đình nạn nhân nghĩ sao?
Đó không phải là công bằng
xã hội.
10. Hiến pháp
Luật pháp giả sử là đem
lại công bằng, công lý nhưng cũng chính là đầu mối bất công xã hội. Khởi đi là
từ hiến pháp (Mỹ) khi thành lập quốc gia thì dựa trên hoàn cảnh đang có 1778 với
những khái niệm, quan niệm về dân chủ của xã hội lúc bấy giờ. Sau 300 năm thì
con người và xã hội thay đổi nhưng các nhà làm luật (Quốc Hội) và xử luật (tòa
án) vẫn dựa vào hiến pháp đã lỗi thời. Trong khi kinh tế (thị trường) đòi hỏi
các công ty phải thích ứng với nhu cầu quần chúng nếu không sẽ bị các công ty mới
đào thải. Về mặt khoa học kỹ thuật cũng vậy. Đặc biệt về xã hội, vốn là quốc
gia tập hợp các người di dân với các nền văn hóa, tôn giáo, chủng tộc khác biệt
đòi hỏi sự thay đổi nhưng nếu tầng lớp cai trị (chính quyền) vẫn giữ thái độ cũ
dựa theo hiến pháp 300 năm trước thì xung đột xảy ra là điều tất yếu.
Như vậy hiến pháp cần
thay đổi (thí dụ: 30 hay 40 năm) và nhiệm kỳ của các nhà làm luật cũng cần thay
đổi (giới hạn) vì lớp người già của lớp tuổi 80s không thể đại diện cho lớp tuổi
30/40. Phải chăng quy luật "phép vua thua lệ làng" vẫn còn ứng dụng?
Mục đích của hiến pháp
là quy tụ mọi người chấp nhận sống với nhau (quốc gia) trên nền tảng hiến pháp
quy định. Khi bất công xã hội xảy ra khiến nguy cơ rối loạn có thể làm tan vỡ
quốc gia thì hiến pháp cần phải được cải tổ. Quan niệm bảo thủ chỉ đúng khi gìn
giữ cái tốt. Một khi hiến pháp cũ không còn dùng được thì tìm hiến pháp mới
thay thế. Sự đổi mới có bất trắc nhưng không vì thế mà con người chối bỏ sự tiến
bộ. Tinh thần sáng kiến, phát minh và mạo hiểm phát xuất từ tư tưởng loài người.
Cũng từ tư tưởng, con người tạo ra triết học để truy cứu mọi ngõ ngách đời sống
dẫn đến toán học và khoa học. Khi đảng chính trị lợi dụng tâm lý quần chúng để
cầm quyền thì đó là Tà trị vì tâm lý là xung động nhất thời của con người.
Khi chính trị lưỡng đảng
của Mỹ khai thác yếu tố tâm lý để duy trì quyền lực chính trị (thay nhau cầm
quyền) vì qua bầu cử thì dân chỉ có thể chọn 1 trong 2 đại diện đảng nhưng chỉ
có giá trị khi có sự hợp tác (compromise) nhưng đó không phải là "đối lập
thống nhất" hay "hỗ tương nguyên nhân" mà chỉ là quyền lợi đảng
tranh núp dưới chiêu bài dân chủ. Khi tranh cử thì đảng nào cũng kêu gọi tạo việc
làm, cắt thuế, giảm nợ (debt ceiling)...
nhưng khi cầm quyền thì ai cũng xài xả láng vì tiền thuế là tiền chùa
(vay nợ) xài trước, nợ để kẻ đi sau phải lo. Khi việc làm cho dân nghèo chỉ là
nhất thời, giảm thuế nhà giàu là vĩnh viễn, chi phí quốc phòng là bất khả xâm
phạm và khoảng cách giàu-nghèo ngày càng tăng thì nền dân chủ đó có được dân
chúng ủng hộ hay không? Khi các nhà làm luật tự ý tăng lương cho mình hay thay
đổi thủ tục chọn Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện để có lợi cho phe đảng thì người
dân có thể làm gì được?
Làm sao xây dựng dân chủ
khi hiến pháp cho phép "tự do ngôn luận" cũng là tự do nói láo, xuyên
tạc, gian lận, lừa gạt, dùng mọi thủ đoạn để cầm quyền qua bầu cử. Như vậy phải
chăng "bầu cử" chỉ là hình thức dân chủ mà những kẻ khôn ngoan lợi dụng
để cầm quyền và bóc lột người khác? Khi hai người có nhận định khác nhau về giá
trị Nhân Bản của con người trong xã hội thì không thể nói chuyện dân chủ. Phải
chăng giới chính trị Mỹ đã lợi dụng xã hội di dân, đa chủng để mỗi khi có xung
đột chủng tộc, văn hóa, tôn giáo... thì đó là cơ hội để họ vận dụng tâm lý đám
đông và đắc cử? Cũng vì lý do đó mà Nhân Quyền được chính quyền Mỹ sử dụng tùy
lúc chứ không phải là yếu tố hàng đầu.
Chỉ vì hiến pháp không
quy định nên các chính trị gia (Hành Pháp, Lập Pháp, Tòa Án) đều lạm dụng chức
vụ để qua mặt luật pháp vì họ biết luật, biết kẽ hở (loop hole). Sẽ không bao
giờ có một hiến pháp toàn vẹn vì sự giới hạn của chữ và nghĩa. Nếu gọi là hiến
pháp Dân Chủ thì phải trả lại quyền làm chủ cho dân khi người dân có suy nghĩ
(ý kiến) khác kẻ cầm quyền. Quyền can thiệp trực tiếp vào bất cứ vấn đề gì từ
phía người dân sẽ khiến giới chức cầm quyền phải cẩn thận khi hành động.
Có ai thắc mắc khẩu hiệu
"hiến pháp vì dân, do dân, bởi người dân" nhưng khi dân muốn thay đổi
hiến pháp thì đại diện dân cãi chầy, cãi cối để rơi vào bế tắc và không thi
hành. Đó không phải là "hiến pháp dân chủ" mà dân cũng không phải là
"chủ” hiến pháp. Phải chăng hiến pháp chỉ là món hàng lừa gạt dân?
Muốn được như vậy thì mỗi
cá nhân phải tự giáo dục (tự kỷ) để có suy nghĩ, lý luận cân bằng (fair). Khi
hai người tiếp xúc, đối xử với nhau không công bằng thì xã hội sẽ không có sự
công bằng. Nếu mỗi cá nhân không thực hiện được Nhân bản (nhân đạo), Nhân tính
(nhân sinh), Nhân chủ (nhân cách) thì sẽ không có xã hội dân chủ. Nếu loài người
không thực hiện được Nhân Loại Bản Vị như là một cương thường chung cho thế giới
thì vai trò của Liên Hiệp Quốc đem lại hòa bình, nhân quyền sẽ không có kết quả.
Khuynh hướng giảm thiểu
vai trò của chính quyền và xóa bỏ thuế xem ra có vẻ "tự do, dân chủ"
nhưng không ai nói đến vai trò của chính phủ khi người dân cần đến: thiên tai,
bệnh dịch, điện nước, giao thông .... Nếu nói rằng chính quyền tạo ra thủ tục
hành chánh làm cản trở sự phát triển kinh tế mà không ai nhắc tới khi chính quyền
vắng mặt thì những kẻ khôn ngoan, mạnh bạo ức hiếp người khác để chiếm đoạt tài
nguyên thì ai sẽ can thiệp?
Kết
Nói đến mặt trái mà
không nói đến mặt phải là không cân bằng. Bạn có thể duy trì cân bằng trong đời
sống hàng ngày cho chính bản thân và người xung quanh chăng?
Bạn cần phải cân bằng
(suy nghĩ trái-phải, thuận-nghịch, trên-dưới, trong-ngoài) cho bản thân, trong
mọi sinh hoạt hàng ngày. Nếu bạn không công bằng với chính bạn thì làm sao bạn
có thể công bằng với người khác trong xã hội?
Công bằng phải chăng là
nền tảng của dân chủ? Khi cá nhân từ bỏ đời sống đơn độc trong thiên nhiên để
gia nhập xã hội (làng, xã, quốc gia) thì họ tin rằng sẽ được đối xử như nhau
(bình đẳng, công bằng) về quyền lợi và nghĩa vụ. Nếu vậy thì tại sao nền dân chủ
hôm nay vẫn còn người giàu, kẻ nghèo, chiến tranh và xung đột? Dân chủ mà không
có công bằng thì không còn là dân chủ. Bạn có ý kiến nào khác hơn không?
Trần Công Lân
Tháng 4 năm 2023 (Việt lịch
4902)
Nguồn: https://nganlau.com/2023/06/15/ban-ve-dan-chu-p2/