Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2024

Nhân Bản Cương Thường: Nhu Cầu Sinh Mệnh (Tự chủ) P1

 

Để giải quyết nhu cầu nhu yếu, Con Người phải tự làm chủ lấy mình, tự mình quyết định cho cuộc sống của chính mình và xã hội mình đang sống.

Nhìn về lịch sử của loài người kể từ khi Con Người xuất hiện trên trái đất này, Con Người luôn luôn tự làm chủ lấy chính mình ngay từ thời ăn lông ở lổ của loài người. Hành động làm chủ lấy chính mình tức là bản thân mình phải quyết định làm gì để tạo ra thức ăn; làm gì để đối chọi với thiên nhiên, với thú dữ; làm gì để tránh chuyện tài sản, con thú mình vừa săn về không bị người khác cướp giựt, không bị hư thối vì ăn không hết trong vài ngày.

Tất cả những vấn nạn mà chính Con Người thời nguyên thủy phải đối diện đã đưa họ đến quyết định hợp thành từng nhóm, từng đoàn, từng bộ lạc để giải quyết những khó khăn mà một cá nhân không thể nào giải quyết được. Để tránh thịt một con thú không bị hư hại, họ đồng ý cùng nhau chia sẻ con thú để mọi người đều có thức ăn, mọi người đạt được nhu cầu nhu yếu tối thiểu đó là cái ăn. Trong cái chia sẻ này họ đã thực hiện hành động quan hệ hữu tương giữa cá nhân với tập thể để tất cả mọi người cùng tiến hóa, đạt được nhu cầu ăn cho tất cả mọi người mà không phí phạm thức ăn.

Để đối chọi lại với thiên nhiên, chẳng hạn như làm sao săn bắt một con thú lớn, mạnh hơn cá nhân, họ kết hợp với nhiều người khác -- cùng nhau săn thú nhằm tạo thức ăn cho tất cả những người trong cùng một nhóm, một bộ lạc. Tinh thần đùm bọc lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau để cuộc sống của mọi người thăng hoa đã có từ khi Con Người xuất hiện trên trái đất này.

Để tránh những cá nhân mạnh, những nhóm khác, những bộ lạc khác cướp lấy tài sản con thú mình vừa săn, họ cùng nhau kết hợp lại thành một nhóm riêng, một bộ lạc riêng nhằm bảo vệ lẫn nhau, tạo cuộc sống cho chính thành viên trong nhóm đó, bộ lạc đó được an toàn hơn. Đây là tinh thần tự vệ của cá nhân, của bộ lạc, đối với sự xâm chiếm của người ngoại tộc. Tinh thần tự vệ này khởi đầu từ chính bản thân của mỗi người, nhận diện ra nhu cầu phải đoàn kết, hợp tác để cùng nhau bảo vệ an ninh cho chính mình và những người khác trong bộ lạc của chính mình.

Từ khía cạnh lịch sử đó, nhiều Con Người kết hợp lại với nhau để trở thành một xã hội, một quốc gia -- không ngoài mục đích giúp đỡ, bảo vệ, và cùng nhau quyết định chính sinh mệnh của mình, bộ lạc mình, quốc gia mình. Bộ lạc nào, quốc gia nào không tôn trọng sinh mệnh của mỗi thành viên sống trong đó, không cho mọi người quyền quyết định lấy sinh mệnh của chính mình, chính dân tộc mình thì quốc gia đó sẽ bị một quốc gia khác thôn tính, đồng hóa hoặc nền văn minh của một dân tộc trên một khía cạnh nào đó của lịch sử sẽ tàn lụi để trở thành một dân tộc yếu kém so với các dân tộc khác cùng thời đại. Một thời huy hoàng của Ai Cập với Kim Tự Tháp, của dân tộc Miên với những tượng ở vùng Angkor, nền văn minh Cahokia của người Mỹ da đỏ trước khi bị người Âu Châu xâm chiếm là những thí dụ điển hình để thấy rõ nhu cầu sinh mệnh của Con Người ảnh hưởng đến xã hội mình đang sống ra sao.

Hãy cùng nhau so sánh sự phồn thịnh của một quốc gia dân chủ với những quốc gia độc tài để thấy được tầm quan trọng của Nhu Cầu Sinh Mệnh ảnh hưởng đến sự phát triển xã hội và Con Người ra sao.

Tại các quốc gia độc tài, sinh mệnh của cá nhân, của xã hội, của toàn thể dân tộc do các nhà độc tài, hay thiểu số độc tài lãnh đạo (hình thức đảng) quyết định sự sống của mỗi cá nhân, sự sống của dân tộc, hướng tiến lên của dân tộc. Nhà cầm quyền độc tài cộng sản VN là một thí dụ điển hình. Quốc Hội Việt Nam phải chờ đợi chỉ thị của đãng (cố ý viết sai dấu cho đúng bản chất), chính sách của đãng, hay nghị quyết của đãng để có thể làm ra luật phù hợp lợi ích của đãng, cho dù lợi ích này đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Những người trong Quốc Hội Việt Nam cũng chẳng dám nắm lấy sinh mệnh của chính mình để phục vụ đất nước và dân tộc. Trái lại Quốc Hội VN để đãng cộng sản VN nắm lấy sinh mệnh của chính họ và cá nhân của mỗi thành viên trong bộ máy Quốc Hội VN là những người nô lệ trung thành của đãng, nô lệ cho đồng tiền, nô lệ cho quyền lực.

Các cá nhân sống trong xã hội hoàn toàn không có quyền quyết định cho sinh mệnh của chính mình, của dân tộc mình mà đãng cộng sản VN giành cái quyền quyết định đó -- để rồi cuối cùng, lịch sử Việt tộc được cạo sửa cho phù hợp với sự tuyên truyền của đãng cầm quyền; để rồi giáo dục sản sinh ra những tiến sĩ giấy, hoàn toàn không có khả năng; để rồi toàn bộ xã hội im lặng trước cái ác, đạo đức xã hội không quan trọng mà tiền, giả dối, lừa gạt là cái quan trọng trong cuộc sống hiện tại. 

Sự giả dối, lừa gạt đã đạt đến tột đỉnh để rồi mọi người cảm thấy chuyện phi đạo đức này là chuyện thường tình, chẳng có gì phải nói, phải đóng góp -- bởi cái sinh mệnh của mỗi cá nhân, của xã hội đã bị kiềm chế bằng nhiều cách mà trong đó bạo lực đóng một vai trò không nhỏ. Sự kiềm chế sinh mệnh của mỗi người đã làm số đông người Việt sống tại VN không còn nghĩ đến nhu cầu mình phải giành lại cái quyền quyết định sinh mệnh cho chính mình, chính dân tộc mình. Sự kiềm chế đã làm cho số đông chấp nhận cuộc đời nô lệ (cho tiền, danh vọng, vật chất, của cải, quyền hành) trên chính lãnh thổ, dân tộc của chính mình.

Trong khi đó ở các quốc gia dân chủ tôn trọng Nhu Cầu Sinh Mệnh của con người đã tạo ra một cơ chế mà mọi người có thể tự mình quyết định cho hướng đi của bản thân mình, của gia đình mình miễn sao sự quyết định đó không ảnh hưởng đến sự sống còn của người khác trong xã hội mình đang sống. Chính vì tôn trọng Nhu Cầu Sinh Mệnh mà những khoa học kỹ thuật được phát triển để đem vào cuộc sống của Con Người, làm thăng hoa cuộc sống của toàn xã hội. Tạm thời gác bỏ những khuyết điểm của hệ thống dân chủ ở các nước dân chủ trên thế giới, mà hãy nhìn về khía cạnh để mọi người quyết định Nhu Cầu Sinh Mệnh của chính bản thân, của xã hội, và từ đó đến hướng tiến của một quốc gia. Tất cả đều khởi hành bằng hành động mỗi cá nhân phải làm chủ với chính sinh mệnh của mình.

Làm chủ chính sinh mệnh của mình khởi đầu bằng sự tự đánh giá đúng khả năng của chính mình và cái khả năng đó sẽ đóng góp vị trí nào phù hợp trong bộ máy xã hội. Dĩ nhiên sẽ có người cho rằng nếu tự mình đánh giá khả năng của chính mình thì chưa chắc đúng bởi có tính chủ quan trong đó. Đồng ý rằng để nhận định cho rõ bản chất của sự việc cần phải dựa vào tính khách quan chứ không thể dựa vào tính chủ quan bởi tính chủ quan luôn luôn nhìn vấn đề qua cảm tính của cá nhân, cho nên sai với sự thật của sự thật. Cách nhìn khách quan này chỉ đúng khi nhìn sự vật không phải là chính bản thân của mình. Còn với chính bản thân của mình thì chỉ có mình, duy nhất, mới hiểu rõ chính mình có khả năng gì, làm được gì và không làm được gì.

Thí dụ: Khi một cá nhân bị bệnh, không khỏe trong người thì chỉ có cá nhân đó biết mình bệnh, biết mình đau ở chỗ nào, cảm giác đau ra sao. Trong trường hợp tự mình đánh giá chính mình thì tính chủ quan đóng một vai trò rất quan trọng và chỉ có mình mới thực sự hiểu được chính mình với điều kiện cá nhân đó phải thực lòng chấp nhận cái thực tế khả năng của chính mình.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/03/01/nhan-ban-cuong-thuong-nhu-cau-sinh-menh-tu-chu-p1/

 

 

Nhân Bản Cương Thường: Nhu Cầu Sinh Mệnh (Tự chủ) P2

 

Tự đánh giá chính bản thân mình không cần đòi hỏi phải học từ trường lớp nào, không đòi hỏi phải là người có trình độ tri thức cao mà đòi hỏi cá nhân đó có sự thành thật với chính mình, chịu lắng nghe với chính tâm của mình hay không, chịu để tâm trí lắng đọng trong không gian và thời gian để tự mình nhìn lại chính mình cho chính xác hơn và hiểu rõ chính mình thực tế hơn.

Cái tâm lý sợ hãi, tự ti, tự ái, tự tôn, ỷ lại sẽ phá hoại tất cả những đánh giá về chính bản thân của mình. Phải mang tâm lý hướng thượng là Con Người không bao giờ hoàn hảo mà Con Người luôn luôn có những khác biệt; và chính những khác biệt này làm cho mỗi Con Người trong xã hội có sự quan trọng, đóng góp bằng nhau nếu mỗi cá nhân hoàn thành tất cả những khả năng mình có trong vị trí của chính mình trong xã hội. Đừng bảo rằng vị bác sĩ quan trọng hơn bác nông dân trong xã hội. Nếu không có bác nông dân sản xuất ra lúa gạo thì vị bác sĩ làm gì có cơm ăn để được đi học thành bác sĩ. Còn nếu không có vị bác sĩ thì khi lúc bác nông dân bệnh thì làm sao có thể hết bệnh để tiếp tục làm công việc sản xuất lúa gạo của chính mình. Cả hai người đóng hai vị trí quan trọng trong xã hội và không có vị trí nào quan trọng hơn vị trí nào.

Thái độ coi thường mọi người, xem mình quan trọng, tài giỏi hơn hay xem tổ chức (đảng) mình tài giỏi hơn là thái độ của những người thất bại mà đãng cộng sản VN là một thí dụ điển hình. Họ xem họ tài giỏi hơn mọi người để họ bắt cả dân tộc theo con đường xã hội chủ nghĩa. Họ ỷ lại, tự ti, mặc cảm không dám đánh giá chính khả năng của mình để rồi họ đảm nhận những trách nhiệm của họ trong vị trí xã hội không đúng chỗ -- cuối cùng đất nước Việt đã không còn là đất nước Việt với những bản chất Việt mà cha ông đã để lại trong suốt 4 ngàn năm lịch sử.

Hãy tưởng tượng một bác nông dân làm ruộng tài giỏi mà bắt bác nắm giữ chức vụ lãnh đạo ngành y khoa và một vị bác sĩ tài ba bắt phải đi làm ruộng thì rõ ràng sự phân phối công việc của xã hội đã không đúng vị trí và từ đó dẫn đến hiệu quả nghiêm trọng mà xã hội Việt Nam hiện giờ là kết quả của sự phân phối công việc không đúng vị trí đó. Sự phân phối công việc không đúng vị trí của từng cá nhân bởi vì mỗi cá nhân tại VN, trong đó gồm có đãng viên đãng cộng sản VN, đã không có cái quyền quyết định sinh mệnh cho chính mình mà để cho đãng cộng sản VN (một tập thể vô trách nhiệm đối với xã hội) quyết định tất cả mọi sự việc.

Nhìn về lịch sử Việt chúng ta thấy nhu cầu sinh mệnh này đã đưa dân tộc chúng ta thoát khỏi 1000 năm đô hộ của Tàu. Nhu cầu sinh mệnh này khởi đầu bằng chính cá nhân nhìn ra được vấn đề mà Trưng Trắc, Trưng Nhị, Ngô Quyền là thí dụ điển hình -- để rồi những cá nhân đó tự đứng lên chống lại các thái thú Tàu, giành lại quyền tự quyết cho chính cá nhân mình, gia đình mình, dân tộc mình.

Dưới đời nhà Trần, Hội Nghị Diên Hồng diễn ra để các bô lão họp lại bàn việc nên hòa hay chiến với giặc Mông Cổ. Toàn dân dưới đời nhà Trần đồng ý quyết chiến chống lại sự bành trướng của giặc Mông Cổ. Vua, quan, dân cùng nhau quyết định sinh mệnh của dân tộc để rồi cuối cùng cha ông ta đánh bại đoàn quân bách chiến, bách thắng Mông Cổ. Vua Trần Thánh Tông đã tôn trọng quyền tự quyết của chính mỗi người dân và cùng với người dân đấu tranh giành quyền tự quyết cho dân tộc của mình.

Nhìn lại VN hiện giờ thì cái quyền tự quyết sinh mệnh của chính mình, của chính dân tộc mình hoàn toàn bị biến mất để thay vào đó quyền quyết định của một tập thể đãng cộng sản VN, hèn với giặc nhưng ác với dân. Cái gì đã đưa đất nước đến thảm cảnh hôm nay? Chính chủ nghĩa cộng sản đã thiêu hủy toàn bộ nền văn hóa của hơn 4 ngàn năm; chính chủ nghĩa cộng sản đã cướp đi lấy nhu cầu sinh mệnh của mỗi người VN; chính chủ nghĩa cộng sản đã làm cho mỗi người VN bị sợ hãi để rồi chấp nhận giao sinh mệnh mình cho người khác nắm giữ -- miễn sao mình sống còn dù phải làm nô lệ thì vẫn sẵn sàng sống kiếp đời nô lệ thay vì chọn nếp sống thật anh dũng như cha ông đã sống trong quá khứ 4 ngàn năm lịch sử.

Là người Việt Nam của thế kỷ 21 này, chúng ta cần phải hiểu rõ Nhu Cầu Sinh Mệnh ra sao và cái Nhu Cầu Sinh Mệnh này đã đóng góp trong tiến trình lịch sử hơn 4 ngàn năm của dân tộc ra sao. Hiểu rõ để từ đó chúng ta xây dựng lại một đất nước VN dựa trên căn bản Nhân Bản Cương Thường để áp dụng vào công việc kiến thiết, xây dựng, giáo dục, đối nội, đối ngoại, kinh tế, ngoại giao, giao thương v.v….

Sự phát triển của lịch sử xã hội loài người là do chính Con Người tự làm chủ lấy chính mình và cùng những cá nhân khác trong xã hội để quyết định cho hướng tiến của xã hội.  Nếu để ai đó làm chủ cuộc sống của chính mình thì cuối cùng mình không phải là mình mà là một nô lệ cho ai đó hay sẽ bị một dân tộc khác thôn tính.

Đã đến lúc dân tộc Việt phải can đảm nhìn lại chính mình và can đảm loại bỏ những sợ hãi để cùng nhau đấu tranh giành lại quyền tự quyết cho chính mình; tự mình quyết định cho sinh mệnh của mình, của làng xóm mình và dân tộc mình. Cha ông của chúng ta nếu sợ hãi như chúng ta hiện giờ thì 1000 năm Bắc thuộc vẫn còn. Hãy sống cho thật đáng sống chứ đừng sống để làm nô lệ cho ai đó, cho tiền bạc, cho vật chất để rồi cuối cùng chính những thứ đó sẽ tiêu diệt đi chính dân tộc của mình.

Hãy can đảm lên tiếng trước những sai trái cho dù người đó là thầy, cha, mẹ, vị lãnh đạo tôn giáo, những người có địa vị xã hội cao. Thái độ im lặng trước sai trái là thái độ của đồng lõa, của sự thỏa hiệp với cái xấu, cái ác, cái sai. Nếu nhiều người tự làm chủ chính mình, lên tiếng trước những sai trái thì xã hội sẽ loại những người xấu trong hệ thống sinh hoạt của xã hội.

Hãy can đảm chối từ hợp tác, nhận những quyền lợi ban phát từ những người ăn gian nói dối; xem thường người khác; đặt nặng bằng cấp hơn là nhân cách, nhân sinh, nhân chủ trong cuộc sống. Nếu mình làm chủ được chính mình thì phải nhìn ra được những cá nhân khác trong xã hội để biết cách ứng xử hầu tạo cơ hội cho mọi người cùng tiến. Những người nói mà không làm, hoặc nói một đàng làm một nẻo thì là những con người không đáng tin cậy; họ là những con người không sống thật với chính họ mà người làm chủ được sinh mệnh của mình sẽ không giao lưu với những người như thế. 

Con người chỉ có thể tự chủ qua giáo dục để nắm vững ý nghĩa cuộc sống trong tương quan hai chiều: cá nhân đóng góp xã hội và xã hội giúp con người phát triển. Trong cuộc sống, con người có thể suy nghĩ và làm việc trong mọi lãnh vực với đam mê vô tận nhưng về thể chất thì đời sống con người có giới hạn bởi thời gian. Với thời gian của mỗi người thì nếu tận lực, tận tâm để đóng góp cho xã hội và gồm cả bản thân thì thế giới sẽ bớt đau khổ.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/03/01/nhan-ban-cuong-thuong-nhu-cau-sinh-menh-tu-chu-p2/

 

 

 

Nhân Bản Cương Thường: Nhu Cầu Tự Do & Quyền Tư Hữu

 Để thực hiện nhu cầu nhu yếu và nhu cầu sinh mệnh, mỗi Con Người sống trong xã hội cần phải có nhu cầu tự do bởi nếu không có sự tự do thì sẽ không thực hiện được hai nhu cầu vừa nói bên trên.

Tự do có ngay từ khi loài người xuất hiện trên trái đất này. Cần phải phân biệt tự do của thời nguyên thủy loài người với sự tự do trong một xã hội loài người.

Tự do thời nguyên thủy là mỗi con người có quyền tự do không giới hạn. Có nghĩa là con người sống ở thời đại này cũng giống như loài thú, mạnh được yếu thua. Khi một cá nhân A ở thời đại này, săn bắt một con thú thì một cá nhân B có thể cướp lấy con thú này bằng sức mạnh của chính mình. Cả hai cá nhân này đều sử dụng quyền tự do của chính mình để thực hiện nhu yếu ăn. Tuy nhiên, thay vì bỏ công sức ra làm chuyện săn bắn thì người thứ hai bỏ công sức ra để thực hiện chuyện cướp giựt thực phẩm của người khác.

Do đó từ tự do đến tự chủ đòi hỏi cá nhân phải có ý thức tu dưỡng để sống hợp tình, hợp lý trong xã hội. Tu dưỡng để biết mình, biết người; để biết phân biệt đúng-sai, để biết Thiện-Ác; để sống với tinh thần tự kỷ, tự giác; để sống và giúp người khác sống vì sinh mệnh mỗi người đều có giới hạn.

Khi thấy ra được sự bất công trong việc giải quyết nhu cầu ăn nếu tiếp tục trong một xã hội loài người nguyên thủy, những Con Người thời đại này, do nhu cầu ăn và nhu cầu sinh mệnh của chính mình, họ đồng ý liên kết lại với nhau để trở thành một nhóm người, một bộ lạc và chấp nhận quyền tự do có giới hạn nhằm bảo đảm nhu cầu ăn của mình không bị ai cướp giựt, đồng thời quyết định được sinh mệnh của chính mình.

Khi các bộ lạc được hợp thành một xã hội lớn để trở thành một quốc gia, thì quyền tự do của mỗi con người trong quốc gia đó vẫn phải có trong giới hạn là quyền tự do đó không làm hại đến quyền tự do của người khác, không làm hại đến tài sản, tính mạng của người khác. Đây chính là quyền tự do của một xã hội loài người mang tính Người. Bất cứ chính quyền nào xâm phạm quyền tự do của Con Người, xâm phạm tài sản, tính mạng của Con Người trong xã hội tức là đã vi phạm Nhân Bản Cương Thường.

Quyền tư hữu

Ngay từ thời nguyên thủy của loài người, quyền tư hữu đã có cùng lúc với sự xuất hiện của Con Người. Quyền tư hữu ở thời điểm đó không hẳn là tài sản mà là sức lao động của chính bản thân. Cái sức lao động đó chính là quyền tư hữu của Con Người và chính cái sức lao động đó để tạo ra của cải, vật chất cho cuộc sống cá nhân.

Chính sức lao động của mình, người dân có thể tự mình xây một căn nhà cho chính mình. Hoặc khai hoang một mảnh đất không trù phú thành một mảnh đất trù phú. Khi một mảnh đất thời xa xưa, không ai làm chủ và một cá nhân bỏ sức lao động của chính mình để khai phá mảnh đất rừng thành cánh đồng phì nhiêu thì cánh đồng phì nhiêu đó là tài sản của cá nhân đó, không ai, không một chính quyền nào có quyền lấy tài sản đó.

Chuyện đất đai, nhà cửa của người dân đã có trước khi có sự xuất hiện của đãng (cố ý viết sai dấu cho đúng bản chất) csvn và khi đãng csvn thu tóm toàn đất nước thì người dân mất đi quyền tư hữu đất đai và nhà cửa của chính mình. Đây là một sự cướp giựt trắng trợn tài sản và quyền tư hữu của người dân mà thời phong kiến, thực dân đã không làm chuyện đó.

Quyền tư hữu là quyền bất cả xâm phạm nếu cá nhân sống trong xã hội đã danh chính, ngôn thuận tự mình tạo ra tài sản của chính mình thì không một ai, lấy bất cứ danh nghĩa nào, cướp đoạt tài sản đã có đó.

Dĩ nhiên nếu cơ cấu cầm quyền cần trưng dụng đất đai tư nhân cho lợi ích chung của tập thể thì cần phải bồi thường số tiền trên mức giá trị của thị trường và chủ nhân của mảnh đất phải đồng ý bán lại mảnh đất đó bởi đây là lợi ích chung của xã hội. Thí dụ cần mở thêm đường xá và cần trưng dụng đất đai của tư nhân qua sự bồi thường (mua lại) thì tư nhân phải bán theo đúng yêu cầu mà luật pháp đã đưa ra trong việc bồi thường mảnh đất được trưng dụng cho lợi ích của xã hội.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/03/15/nhan-ban-cuong-thuong-nhu-cau-tu-do-quyen-tu-huu/

 

 

Nhân Bản Cương Thường: Quyền Tự Vệ & Vô Tội

 

Quyền tự vệ

Đây là quyền tự do đầu tiên khi mà chính những con người thời nguyên thủy đồng ý ngồi lại với nhau để cái quyền này được bảo đảm. Vì sự tự vệ cho chính bản thân mình, tài sản mình không bị cướp giựt, những con người thời nguyên thủy đồng ý ngồi lại với nhau để cùng bảo vệ lẫn nhau về mặc nhu yếu của ăn và đồng thời thể hiện bản tính tự nhiên của Con Người là phải tự tìm cách bảo vệ lấy sinh mệnh và tài sản của mình khi mà sinh mệnh và tài sản của mình bị một ai đó cướp giựt.

Với tiến trình lịch sử của loài người, quyền tự vệ ngày càng được cải tiến để phù hợp với tri thức của Con Người. Ở thời đại của thế kỷ 21 này, quyền tự vệ được giải quyết qua hai phương pháp đó là luật pháp và tự vệ bản thân đáp ứng lại sự nguy hiểm cho tính mạng của cá nhân đó.

Trong trường hợp cá nhân A đang bị cá nhân B đánh đập bằng dao và có thể làm mất đi sinh mạng của cá nhân A -- thì cá nhân A, hoặc những người khác, có thể chống lại hành vi cá nhân B, chấm dứt hành động thô bạo của B đối với A. Đây là hành động tự vệ và nếu trong hành động tự vệ này, cá nhân B có thể bị thương, hoặc chết thì cá nhân A, hoặc bất cứ ai giúp cá nhân A, không phải bị tội mà là thực hiện quyền tự vệ của chính mình, hoặc quyền tự vệ của một cá nhân ngoài cuộc, ngăn cản một cá nhân khác chấm dứt hành động thô bạo trong xã hội.

Thí dụ bên trên chỉ được thực hiện khi mà tính mạng của cá nhân đang bị đe dọa. Còn nếu như cá nhân B ăn cắp đồ của cá nhân A thì chuyện ăn cắp này cần phải đưa ra tòa, với luật pháp của xã hội để xét xử. Quyền tự vệ để tìm công lý phải do luật pháp, do những người ngoài cuộc xử thì mới có sự công tâm. Khi tính mạng mình không bị đe dọa thì bất cứ hành động nào, của bất cứ cá nhân nào làm thiệt hại tài sản, tinh thần của mình phải do chính luật pháp xử lý.

Dĩ nhiên đây là chuyện được giải quyết trong một xã hội dân chủ, có luật pháp. Còn đối với hoàn cảnh của Việt Nam, một xã hội độc tài, có luật pháp nhưng luật pháp để bảo vệ quyền lợi của đãng (cố ý viết sai dấu) cầm quyền thì người dân chẳng còn sự lựa chọn nào khác hơn là sự lựa chọn -- tự mình giải quyết lấy sự bất công.

Đó là lý do tại sao chúng ta thấy người dân sẵn sàng bắt, hành hạ, đánh đập người trộm chó, trộm gà bởi luật pháp của nhà cầm quyền là luật rừng, mạnh được, yếu thua; luật dành cho những người có tiền để mua chuộc tòa án nhằm cướp đất, cướp của người không có tiền, không có quyền; công an không bận tâm để giải quyết chuyện trộm chó, trộm gà bởi không có quyền lợi (lo lót tiền bạc) từ những người (trộm hoặc bị trộm) chẳng có gì để lo lót. 

Thái độ tự giải quyết sự bất công tại Việt Nam, trớ trêu thay, chỉ xảy ra ở những người thấp cổ bé miệng đối với những người thấp cổ bé miệng. Nghĩa là người dân rất cản đảm bắt đánh người trộm chó, trộm gà nhưng lại sợ hãi sự cướp giật có bài bản từ nhà cầm quyền, sự giết người có bài bản từ nhà cầm quyền. Bao nhiêu người vào cơ quan công an để rồi trở về với cái xác mà không người dân nào dám làm như chuyện bắt người trộm chó, trộm gà để đánh, để hành hạ cho chính bản thân tội phạm học bài học bản thân?

Có lẽ số đông người dân đã không còn hiểu rõ khái niệm quyền tự vệ là gì, từ đâu mà có và thế nào gọi là thực hiện quyền tự vệ cho bản thân mình. Chính vì không nắm rõ khái niệm này mà sự tự vệ của người dân vẫn là hành động của thời nguyên thủy loài người, mạnh được yếu thua. Ai mạnh hơn mình thì mình cắn răng chịu đựng. Còn ai yếu hơn mình thì cứ đánh đập để dạy cá nhân đó một bài học mà hành động đánh người trộm chó là thí dụ điển hình.

Một hành động tự vệ hữu hiệu nhất ở một xã hội độc tài đó là sự phản kháng bất hợp tác hay còn gọi là bất tuân dân sự. Khi mà luật của một cơ chế cầm quyền là để phục vụ đãng cầm quyền; khi cơ chế cầm quyền hoàn toàn vô trách nhiệm với xã hội, người dân; khi cơ chế cầm quyền kiểm soát mọi sinh hoạt của người dân; khi cơ chế cầm quyền đưa ra những bộ luật đi ngược lại hiến pháp hoặc đi ngược lại những quyền căn bản mà Con Người đã có từ thời nguyên thủy -- thì những con người sống trong cơ chế độc tài đó có quyền tự vệ bảo vệ bản thân và tài sản của mình. Cái quyền tự vệ này gồm có cả quyền bất tuân dân sự đối với những luật lệ mà đãng cầm quyền đưa ra. Quyền tự vệ này cũng có thể là sử dụng bạo động đối với một chính quyền hèn với giặc nhưng ác với dân. Vấn đề bạo động hay bất bạo động cần phải nhìn ở dạng rộng lớn, tùy vào hoàn cảnh để áp dụng bạo động hay bất bạo động. Lịch sử chứng minh có những lúc cần phải sử dụng bạo động để chấm dứt một cơ chế cầm quyền vô nhân, thất đức nếu phương pháp bất bạo động không hữu hiệu.

Quyền Vô Tội

Nhìn về lịch sử của loài người, Con Người luôn luôn sống hướng thượng. Sự hướng thượng này làm cho Con Người nhìn ra được Quyền Vô Tội phải cần phải có. Quyền vô tội là gì? Phải chăng một người giết người vẫn có cái quyền vô tội này?

Quyền vô tội có nghĩa là bất cứ cá nhân nào bị đưa ra trước tòa án thì luôn luôn được xác định là vô tội cho đến khi cơ quan điều tra chứng minh được là cá nhân đó vi phạm luật pháp. Vậy thì một cá nhân giết một cá nhân khác, trước tòa án, người bồi thẩm đoàn và thẩm phán đều luôn luôn mang tâm niệm là cá nhân đó vô tội cho đến khi những chứng cớ đưa ra trước tòa -- thì lúc đó mới kết luận là cá nhân đó có tội hay không có tội. Cùng là một hành động giết người, nhưng nếu sự giết người hay làm hại thân thể người khác nhằm mục đích tự vệ (như đã nói ở bên trên) thì hành động đó không hề vi phạm luật pháp. Đó là lý do tại sao, ở những quốc gia dân chủ, cá nhân nào thực hiện quyền tự vệ và chẳng may làm người khác thiệt mạng thì đây không phải là sự cố ý, cho nên cá nhân đó không hề bị đưa ra trước tòa án.

Đây chính là quyền căn bản của mỗi cá nhân được đưa ra trước tòa và những ai tham dự vào tòa án đều phải hiểu rõ điều này để tạo cho cuộc xử án công minh. Bất cứ bồi thẩm đoàn nào tham dự cuộc xử án mà chưa nghe rõ sự thật từ hai bên luật sư nhưng trong tâm kết luận là người đó có tội thì cuộc xử án không hề công minh. Đây là lý do tại sao trong cuộc tìm kiếm bồi thẩm đoàn, các luật sư của hai bên và gồm cả vị thẩm phán luôn luôn nhắc nhở mọi người về cái quyền vô tội của bị cáo để các bồi thẩm đoàn không có thành kiến trước khi vụ xử xảy ra (xem bài Lựa Chọn Bồi Thẩm Đoàn)

Nếu luật pháp cho mọi người được công nhận là vô tội trước khi được xử án thì đây là trường hợp tội trạng nằm ở vị thế không rõ ràng. Tuy nhiên, khi một cá nhân giết một cá nhân khác được ghi nhận qua hình ảnh và sự giết hại này là cố ý; hoặc một cá nhân khác nhận tiền hối lộ mà luật hối lộ cấm đoán, thế nhưng các cá nhân này không nhận lãnh trách nhiệm mà lợi dụng quyền vô tội để làm tốn tài lực, nhân lực trong cơ cấu tòa án thì cần phải có một bộ luật khác để tránh tình trạng lạm dụng quyền tự do này hay bất cứ quyền tự do khác mà luật pháp đã quy định. Chúng ta sẽ bàn thảo chuyện này trong Quyền Trách Nhiệm.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/03/15/nhan-ban-cuong-thuong-quyen-tu-ve-vo-toi/

 

 

Nhân Chủ - Dân Chủ - Dân Quyền

 

Ghi Chú NL: Bài viết ở phần cuối đã nhấn mạnh từ ngữ Nhân Chủ. Con người từ thời ăn lông ở lổ, mỗi người đã tự làm chủ lấy chính mình. Chính sự làm chủ đó, mỗi con người hợp lại để tạo ra từng nhóm, từng bộ tộc, bộ lạc, quốc gia để chọn người ra làm đại diện cho tập thể hầu thực hiện chuyện “thiết kế và chấp hành nhân sinh”. Người được tập thể chọn ra cùng với tập thể đó thực hiện mục tiêu “thiết kế và chấp hành nhân sinh”. Thời đại hiện nay, khái nhiệm Nhân Chủ chưa được triển khai rộng rãi mà người ta chỉ nắm phần ngọn của Dân Chủ, Dân Quyền mà không nắm phần gốc là Nhân Chủ. Khi mỗi cá nhân tự làm chủ lấy chính sinh mệnh của mình thì sẽ biết thực hiện Dân Chủ và Dân Quyền như thế nào để đáp ứng được mục tiêu “thiết kế và chấp hành nhân sinh”. Xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết từ người trong nước đặt vấn đề Nhân Chủ là cái gốc, là nền tảng của Dân Chủ và Dân Quyền.

Chúng ta sẽ tìm hiểu các khái niệm để hiểu "quyền" và "làm chủ" khác nhau thế nào. Nói về khái niệm "làm chủ", thì nói đến "Nhân Chủ" sẽ chính xác hơn là "Dân Chủ". Chúng ta cần hiểu rõ và minh định lại, đây là quá trình cực kỳ khó khăn vì khái niệm vốn đã ăn sâu vào nhận thức con người và sự nhập nhằng trong khái niệm không rõ ràng làm cho sự vận hành ở phía nhà nước và người dân không được thực thi một cách hoàn chỉnh. Và khi nhà nước độc tài, lại càng xảy ra vấn đề.

Nhân Chủ (Humanocracy): Con người có các quyền cơ bản quy định dựa trên các đặc tính của con người, tồn tại và phát triển thông qua quá trình hòa hợp với đời sống tự nhiên và các mối ràng buộc xã hội. Con người làm chủ vận mạng chính mình, quyền đặc định thuộc về con người phải được đưa lên hàng đầu trong hệ thống vận hành xã hội. Đây là đặc định chung cho thế giới loài người.

Quyền công dân: Công dân trong một quốc gia, bởi vì có sự khác nhau về văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và lãnh thổ nên mỗi quốc gia phải có hệ thống pháp luật để duy trì trật tự xã hội và phát triển đất nước. Hệ thống pháp luật này được viết ra dựa trên tôn chỉ bảo vệ tối đa quyền con người ở trên. Trong quá trình bầu ra cơ cấu nhà nước, công dân có quyền bầu cử chính danh. Trong hiến pháp, sẽ có các quy định về việc nhà nước hoạt động như thế nào, hiến pháp phải bảo vệ tối đa quyền con người như đã nói ở trên, nếu nhà nước không thực thi được như hiến pháp đề ra, thì công dân có quyền phế truất và bầu lại cơ cấu nhà nước mới, và điều này phải được ghi rõ vào hiến pháp. Ở đây hoàn toàn chưa nói đến thể chế chính trị đang vận hành là gì. Nếu thể chế là đa đảng, tam quyền phân lập thì công dân có quyền tham gia vào việc định ra hiến pháp, luật pháp, kiểm định sự độc lập hệ thống tư pháp. Tất cả các quá trình này, phải thông qua ý kiến công dân, đây là quyền công dân và chúng ta nên gọi nó chính xác là "Dân Quyền". Chưa kể, trong tương lai, chắc chắn sẽ có thể chế chính trị ưu việt hơn cả các mô hình chính trị như bây giờ, thì việc hiểu rõ các khái niệm là điều con người nên nắm bắt để bảo vệ cho chính bản thân mình. Sau khi bộ máy nhà nước được thành lập với hệ thống hiến pháp, luật pháp và tư pháp độc lập hoàn chỉnh thì cơ cấu bắt đầu vận hành, kể từ lúc này, tất cả mọi công dân trong đất nước và bao gồm cả công dân đơn lẻ hay tổ chức đang làm việc trong chính phủ phải tuân theo hiến pháp và pháp luật này. Sự tuân theo trật tự này là PHÁP QUYỀN. Và cơ quan tư pháp là cơ quan có chức năng phán xét và xử lý những công dân hay tổ chức vi phạm luật pháp bất kể đó là ai một cách công bằng và minh bạch.

Vậy thì minh định lại, nếu nói "Dân Chủ" thì không còn chính xác nữa. Khái niệm "Dân Chủ" rất bó hẹp, thường bị hiểu sai và làm sai, xảy ra ở cả hai phía nhà nước và công dân. Sẽ có các vấn đề xảy ra, về thực tế, không có nhà nước nào lại không muốn có quyền lực, sự mong muốn sở hữu quyền lực đó là mong muốn "làm chủ" công dân. Trái lại, công dân cũng mong muốn như vậy, vậy nên, cả nhà nước và công dân đều muốn làm chủ mà không hiểu được "quyền" và "làm chủ" khác nhau thế nào thì dễ xảy ra hỗn loạn xã hội. Nhà nước chỉ là THÀNH PHẦN ĐẠI DIỆN CHO CÔNG DÂN, và công dân sử dụng QUYỀN của mình để kiến thiết nên cơ cấu nhà nước và hệ thống pháp luật. Vậy thì, khái niệm"dân chủ" không chính xác nữa. "Dân Chủ" ở đây chỉ có thể nói về quyền sở hữu tài sản của công dân. Công dân làm chủ tài sản của mình bao gồm tài sản vật chất và trí tuệ. Có quyền sở hữu đất đai thực thụ chứ không phải là "quyền sử dụng đất". Đây là quyền làm chủ cơ bản của công dân. Chúng ta phải minh định, Nhân Chủ - Dân Chủ - Dân Quyền khác nhau như vậy.

Một xã hội văn minh là con người được làm chủ vận mạng của chính mình, sống trong một quốc gia, con người có quyền cùng nhau đề ra một cơ cấu nhà nước cùng với hệ thống pháp luật hoàn thiện để đảm bảo tối đa quyền con người của mình, đồng thời xã hội đó phải có một trật tự thực thi pháp luật chứ không phải hỗn độn. Nếu nhà nước đó không phải hoàn thành được chức trách của mình như đã ghi trong Hiến Pháp thì công dân có quyền bầu ra một cơ cấu nhà nước khác để đảm bảo quyền con người và quyền công dân được bảo vệ. Và quan trọng là con người phải được hoàn toàn tư hữu tài sản vật chất và phi vật chất thuộc về mình. Nếu tất cả những điều này được đảm bảo thực thi thì quốc gia sẽ phát triển, bình đẳng và văn minh. Người viết vẫn luôn đấu tranh cho Nhân Chủ chứ không đấu tranh cho Dân Chủ vì các lý do trên. Nhân Chủ đã bao hàm cả Dân Chủ và Dân Quyền. Nhân Chủ là khái niệm đưa con người lên vị trí cao nhất, con người là chủ thể cao nhất trong thế giới tự nhiên, có trí tuệ và sự nhận thức, làm chủ vận mạng của mình, đem sự nhận thức của mình hòa hợp với thế giới tự nhiên và phát triển xã hội.

Trong thời kỳ mà sự tàn phá con người về thể xác và tinh thần ở đỉnh điểm, thì Nhân Chủ là khái niệm mà con người cần biết và hiểu rõ, phải hiểu rằng, sinh mạng con người là cao quý nhất, và chủ thể này phải được bảo vệ bằng bất cứ giá nào. Những thế lực đang âm thầm đưa con người vào chỗ hủy diệt là đang làm trái lại với quy luật tự nhiên và sự vận hành của vũ trụ. Cái gì trái với tự nhiên sẽ dẫn đến diệt vong!

HUỲNH THỊ TỐ NGA

Nguồn: FB của cô Huỳnh Thị Tố Nga

Nguồn: https://nganlau.com/2024/03/07/nhan-chu-dan-chu-dan-quyen/

 

 

Toại Kỳ Sở Nhu

Cuộc sống ở Mỹ là sự lựa chọn và được các nhà chính trị quảng cáo sự lựa chọn đó. Từ sự lựa chọn đó đưa con người chọn cuộc sống vật chất thay vì biết thế nào gọi là đủ.

Toại Kỳ Sở Nhu được hiểu là biết đủ để không phí phạm bởi nếu phí phạm thì sẽ ảnh hưởng đến nhiều người và đến môi trường chúng ta đang sống. Khổ một điều là đa số sống trong xã hội không nhìn được thế nào gọi là đủ. Đơn giản là lòng tham hay sự ham muốn không có đáy, cho nên ai cũng muốn mà khả năng, tài năng, tài chính không có nhưng vẫn muốn để rồi tạo ra sự lừa gạt, ăn cắp để phục vụ cái muốn của bản thân.

Thế nào gọi là Toại Kỳ Sở Nhu và phải chăng điều này khó xảy ra với những người giàu có triệu phú hay tỷ phú?

Có thể nói rằng những người giàu có thường sống theo sự giàu có của chính mình. Nếu là triệu phú thì người ta sẽ nghĩ đến mua một căn nhà to hơn, rộng hơn cái căn nhà họ hiện có. Ăn uống cũng được nâng cấp với những món ăn đắt tiền. Đây là lối sống của người giàu, người có khả năng tài chính cho nên họ luôn luôn đòi hỏi những món ăn lạ, những căn nhà to, đẹp. Đây là cuộc sống để phục vụ dục vọng chứ không phải là toại kỳ sở nhu. Khi đã giàu có thì dục vọng cũng gia tăng theo sự giàu có đó.

Một số rất ít, đếm trên đầu ngón tay, tuy là triệu phú hay tỷ phú, họ vẫn chọn Toại Kỳ Sở Nhu chứ không sống theo dục vọng dù rằng họ có tiền để làm chuyện đó. Nhà tỷ phú Warren Buffett, triệu phú Geoffrey Holt, và Terry Kahn  là thí dụ điển hình của những cá nhân chọn cuộc sống Toại Kỳ Sở Nhu.

Ông Warren Buffett chưa là triệu phú khi ông mua căn nhà vào năm 1958 với giá tiền là 31,500 đô. Căn nhà của ông có 5 phòng ngủ và rộng 6570 sf. Khi ông thành triệu phú và tỷ phú thì ông vẫn ở căn nhà đó mà không mua một biệt thự rộng hơn như các nhà triệu phú và tỷ phú khác. Ngay cả thức ăn, ông chưa bao giờ mua thức ăn buổi sáng với giá trên 4 đô. Ăn sáng của ông thường ở tiệm McDonald. Năm 2020 ông vẫn xài điện thoại (flip phone) trị giá 20 đô và đó là năm đầu tiên ông đổi điện thoại đó qua Iphone.

Đối với ông Geoffrey Holt thì lại ở trong một môi trường hoàn toàn khác với ông Buffett. Ông Geoffrey sống và làm việc tại khu mobile home. Căn nhà mobile home của ông hoàn toàn không có bàn ghế, tivi, máy vi tính. Ngay cả cái giường ngủ của ông một chân giường thục xuống sàn của căn nhà mobile home. Cuộc sống của ông hoàn toàn không có xe dù rằng trước đó ông có chiếc xe đạp. Ông chọn cuộc sống đơn giản ở một thành phố Hinsdale, New Hampshire với dân số là 4 ngàn người. Khi ông qua đời trong tháng 6 năm 2023, thọ được 82 tuổi, thì một sự bất ngờ cho tất cả mọi người trong cái thành phố nhỏ bé đó. Tờ di chúc của ông để lại số tiền 3.8 triệu cho thành phố.

Tờ di chúc đó thực sự đã hình thành từ năm 2001, khi ông gặp tổ chức thiện nguyện New Hampshire Charitable Foundation để trình bày ý định sau khi ông chết, toàn bộ tài sản sẽ giao cho tổ chức thiện nguyện này để lo về những dự án y tế, văn hóa, giải trí cho những người sống tại thành phố Hinsdale. Lúc đó tổ chức thiện nguyện không biết số tiền là bao nhiêu mà chỉ biết ý định của ông giao lại số tài sản sau khi ông qua đời.

Ông Terry Kahn sống tại thành phố Indianapolis và làm việc cho cơ quan cựu chiến binh trong 30 năm. Ông là người rất cẩn thận trong việc chi phí cho những vật chất của đời sống bản thân. Ông có nhà và lái chiếc xe Honda cũ. Ông không có điện thoại di động vì ông cho rằng quá đắt và có lẽ ông không cần đến nó. Khi ông chết vào năm 2021, số tiền ông có là 13 triệu để cho những hội từ thiện theo tờ di chúc của ông.

Ba hình ảnh bên trên cho thấy ba cá nhân có tiền nhưng chọn cuộc sống Toại Kỳ Sở Nhu chứ không sống theo dục vọng mà đa số những người có tiền thường có. Dĩ nhiên chọn cuộc sống như thế không phải là dễ bởi đồng tiền làm con người biến chất. Sự biến chất đó do tâm lý của số đông là nếu đã có tiền thì tại sao phải sống như lúc không có tiền. Chính cái tâm lý này làm cho bản chất của con người biến dạng mà chính bản thân họ không biết.

Ở trường hợp của ông Holt xem ra quá đơn giản. Dĩ nhiên đó là sự lựa chọn của ông Holt bởi chính bản thân ông không thấy có nhu cầu đó và đồng tiền ông có, chính ông cũng không biết phải làm gì ngoài chuyện chuẩn bị cho cái chết để đồng tiền đó đóng góp hữu ích cho những người sống tại thành phố của ông.

Nếu nhìn vào cách sống và sử dụng tiền bạc ở ba con người giàu có này thì chúng ta thấy một điều, họ không sống theo đòi hỏi của vật chất. Ngay cả điện thoại di động, ông Holt và ông Kahn hoàn toàn không có vì cho rằng không cần thiết cho cuộc sống và quá đắt. Còn ông Buffets thì năm 2020 vẫn sử dụng loại điện thoại loại flip phone.

Biết thế nào gọi là Toại Kỳ Sở Nhu xem ra khó lắm bởi tâm lý con người luôn luôn muốn có thêm và từ cái muốn có (tham) đó làm cho con người không hiểu được Toại Kỳ Sở Nhu là gì.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/03/07/toai-ky-so-nhu/

 

  

Thứ Ba, 27 tháng 2, 2024

Nhân Bản Cương Thường: Nhu Cầu Vật Chất

 

Nhu yếu là những đòi hỏi về vật chất (ăn, mặc, cư trú), phát triển giống nòi (gia đình), tinh thần (tôn giáo, bạn bè, văn hóa), giáo dục, y tế, và an ninh. Đây là những nhu cầu cần thiết của Con Người trong cuộc sống để nâng đỡ lẫn nhau làm thăng hoa xã hội với mục đích giúp mọi người cùng tiến.

Nhu cầu vật chất ăn – mặc – cư trú

Lịch sử của loài người đã chứng minh -- Con Người ngồi lại với nhau, tương tác giữa một cá nhân với một cá nhân, cá nhân với xã hội, xã hội với cá nhân nhằm giải quyết cái căn bản nhu yếu của Con Người. Cái căn bản nhu yếu này dần dần gia tăng do sự nhận thức của Tri Thức Con Người và từ đó -- Con Người cũng như Xã Hội phải điều chỉnh nhu cầu nhu yếu theo từng thời đại của lịch sử.

Nhu cầu đầu tiên của Con Người là cái ăn, cái mặc. Thời nguyên thủy loài người, để giải quyết vấn đề này, những Con Người hợp tác với nhau để săn đuổi một con thú hầu cung cấp thức ăn và cung cấp da thú để bảo vệ thân vào mùa đông. Dĩ nhiên một cá nhân khó mà có thể săn một con thú lớn và mạnh hơn chính mình. Cho nên vì nhu cầu ăn – mặc, Con Người thời nguyên thủy đã hợp tác với nhau để tạo ra cái ăn -- không phải cho chính riêng mình mà cho những người đã hợp tác với chính mình. Đây là nhu cầu hữu tương, tự tính (tự động do nhu cầu sống còn của Con Người).

Đây là nhu cầu căn bản của Con Người từ thời nguyên thủy cho đến hôm nay. Từ cái thời chọn lối sống săn bắn đi hết chỗ này đến chỗ nọ; đến chọn định cư ở một địa phương để dựa vào sự cải cách đất đai -- trồng trọt những thức ăn để nuôi dưỡng Con Người và toàn thể cá nhân trong xã hội đó; hoặc chăn nuôi để tạo ra thịt-cá, cộng với ngũ cốc trồng trọt nhằm nâng cao cuộc sống vật chất, bảo đảm vật chất luôn luôn có đủ -- thay vì đi săn thì hôm có thú, hôm không có thú.

Cái nhu cầu vật chất này đã tạo cho loài người hiểu rằng, tất cả mọi người cần phải có ăn để sống, để đóng góp công sức vào công việc hằng ngày của xã hội. Trẻ nhỏ làm công việc của trẻ nhỏ, tuy không sản xuất ra sản phẩm nhưng vẫn được nuôi dưỡng với đầy đủ nhu cầu thức ăn cho cơ thể -- nhằm mục đích học tập từ người lớn để chuẩn bị tinh thần khi trưởng thành -- vào đời sống xã hội phải biết làm gì, đóng vị trí thích hợp trong xã hội nhằm mục đích giúp đỡ những cá nhân khác đạt được nhu cầu vật chất căn bản này.

Người già không còn nằm trong lực lượng sản xuất nhưng không có nghĩa là người già không có nhu cầu ăn-mặc. Người già hoàn thành vai trò trong xã hội của chính bản thân mình lúc sức khỏe cho phép.  Cho nên khi về già, xã hội phải có nhiệm vụ lo cái ăn cho người già chứ không phải bỏ bê như món đồ phế thải.

Những người bị bệnh lúc bẩm sinh hay bị tàn tật ở bất cứ thời điểm nào đó của cuộc đời, xã hội có trách nhiệm bảo đảm nhu cầu căn bản ăn-mặc của những cá nhân này. Đây không phải là gánh nặng xã hội mà là sự quan tâm của xã hội đối với những thành viên trong xã hội đã không may mắn trong cuộc sống bình thường của một Con Người.

Quan hệ giữa cá nhân và xã hội được tương tác lẫn nhau để mọi người trong xã hội có được nhu cầu đủ ăn và mặc. Cá nhân tương tác với xã hội và xã hội tương tác với cá nhân để cả hai (cá nhân và tổ chức xã hội) có thể cùng nhau thăng tiến cho nhu cầu vật chất này. Trong sự tác động này thì xã hội không thể nào có những người đứng ngoài đường ăn xin cho nhu cầu ăn-mặc của bản thân.

Lịch sử loài người chứng minh là cũng vì cái ăn mà dân tộc này đi đánh phá dân tộc khác để giành miếng ăn cho chính dân tộc mình. Đây là lối hành xử đi ngược lại căn bản của Con Người hay còn gọi là Nhân Bản Cương Thường (Lý Đông A gọi là Duy Nhân Cương Thường). Bởi mỗi Con Người trên thế giới này, không cần biết thuộc giống dân nào, có học hay vô học, tất cả những Con Người này đều có nhu cầu ăn-mặc. Khi một đất nước không có đủ thực phẩm để ăn thì chính những người dân trong xã hội đó phải tìm cách để giải quyết cái ăn trong chính xã hội mình đang sống. Nếu vẫn không giải quyết được thì cần kêu gọi sự giúp đỡ của các dân tộc khác trên thế giới chứ không thể nào đem quân đội để giành cái ăn-mặc của dân tộc khác. Hoặc dùng phương tiện kỹ thuật hiện đại như súng đạn để hăm dọa một dân tộc khác, bắt dân tộc khác cung cấp những thứ sản phẩm mà mình muốn, hoặc cướp giựt sản phẩm của một dân tộc khác.

Cần nên nhớ rằng, bất cứ cá nhân nào, bất cứ dân tộc nào dùng sức mạnh để cướp lấy tài sản, thức ăn của bất cứ Con Người nào trên thế giới này tức là đã vi phạm cái Nhân Bản Cương Thường, đi ngược lại xã hội tự tính bởi Con Người. Con Người ngồi lại với nhau để giải quyết nhu cầu vật chất qua sự hợp tác chứ không phải để cướp giựt vật chất của người khác, của dân tộc khác.

Dân tộc mình cần ăn để sống và dân tộc khác cũng thế. Không thể vì cái ăn của mình để rồi tiêu diệt một dân tộc khác; một hành động giống như loài thú, thì lối ứng xử này không phải là lối ứng xử của Con Người và lối ứng xử này đã đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường của lịch sử loài người để rồi chiến tranh tiếp tục xảy ra.

Khi nói về cái ăn thì không thể quên được cái ăn của hôm nay phải là những thức ăn không làm ảnh hưởng đến đời sống của Con Người. Ăn để rồi mắc phải bệnh ung thư, chết sớm thì đó là cái ăn độc hại, cần phải ngăn ngừa, cần phải tìm cách để những thức ăn độc hại không đưa vào xã hội tiêu thụ. Chính những cá nhân trong xã hội và chính cái cơ chế xã hội đó phải có trách nhiệm để không cho những thức ăn có hại đến sức khỏe lưu trữ trong xã hội hoặc đem bán ra ở một quốc gia khác. Không thể vì thức ăn đó có hại cho dân tộc mình nhưng nếu bán cho dân tộc khác thì không sao. Làm điều này đã đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường của Con Người. Mình không dám ăn bởi thức ăn đó có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của mình thì tại sao mình lại đem bán cho người khác, cho dân tộc khác? Người khác, dân tộc khác cũng là Con Người, đều có nhu cầu ăn để sống chứ không phải ăn để chết. Mình xem mạng sống của mình quý trọng còn mạng sống của người khác rẻ hơn hay chăng? Nếu người khác, dân tộc khác làm điều đó với chính bản thân mình, với chính dân tộc mình thì mình nghĩ sao về hành động trên?

Cái ăn-mặc không phải đơn giản chỉ là giải quyết cái ăn mà không cần biết hệ quả của cách giải quyết đó ra sao, có hại đến môi trường ra sao, có hại đến quốc gia khác ra sao.  Đây cũng chính là những vấn đề cần phải suy tư khi nghĩ đến cái nhu cầu căn bản ăn-mặc của Con Người.

Ngay cả chuyện mặc cũng cần phải quan tâm để không phung phí tài nguyên thiên nhiên. Ở những quốc gia giàu có, người ta thấy một người có cả mấy chục đôi giày, mấy trăm bộ áo. Hình ảnh này cho thấy từ nhu cầu nhu yếu đã trở thành phí phạm những nhu yếu. Dĩ nhiên không ai ngăn cấm chuyện mua sắm của mỗi người nhưng một người quan tâm đến xã hội, môi trường sẽ cảm thấy khó chịu khi nhìn hình ảnh phí phạm khi trên thế giới nhiều người không có giày để mang, không có đủ áo để mặc.

Ngoài nhu cầu ăn mặc Con Người cần có một chỗ cư trú để tránh mưa nắng, để nghỉ ngơi sau những giờ làm việc vất vả. Thường mỗi cá nhân trong xã hội cố gắng tạo cho mình một nơi cư trú nhưng không hẳn là ai cũng có thể đạt được chuyện này. Cho nên những ai không có nơi cư trú thì xã hội phải có trách nhiệm để giải quyết chuyện này. Một xã hội nhân bản không thể nào để cho những người vô gia cư sống lây lất trên đường phố, vỉa hè, hay dưới gầm cầu.

Bất cứ chính quyền nào làm áp lực với chủ nhà để đuổi những người mướn nhà chỉ bởi vì cá nhân đó lên tiếng đấu tranh cho công bằng, lẽ phải, tự do dân chủ thì chính quyền vi phạm nhân bản cương thường mà nhà cầm quyền Việt Nam đối với những người bất đồng chính kiến là thí dụ điển hình.

Nhu cầu có chỗ cư trú của hôm nay bao gồm những điều kiện căn bản trong việc cư trú là điện, nước, và gas trong việc sưởi ấm vào mùa đông. Cho nên bất cứ ai, bất cứ chính quyền hay quốc gia nào, phá hủy hệ thống điện, nước, gas -- làm ảnh hưởng đến chỗ cư trú của người dân tức là đã vi phạm Nhân Bản Cương Thường. Hình ảnh quân đội Nga bắn phá vào nhà dân, vào hệ thống điện và nước trong mùa đông của đất nước Ukraine tức là đã vi phạm Nhân Bản Cương Thường. Hình ảnh chính quyền Do Thái cúp điện nước trong khu vực Gaza tức là đã vi phạm Nhân Bản Cương Thường.

Tóm lại nhu cầu ăn-mặc-cư trú là nhu cầu của Con Người hay còn gọi là Nhân Bản Cương Thường. Những nhu cầu này cá nhân có thể tự lo nếu cơ chế tạo ra điều kiện (sẽ nói ở phần sau) và nếu cá nhân nào không có đủ khả năng để tự túc thực hiện nhu cầu này thì sẽ được các tổ chức xã hội dân sự cố gắng giúp đỡ. Tuy nhiên, nếu nhiều cá nhân cần sự giúp đỡ đi ra ngoài khả năng của các tổ chức xã hội dân sự thì chính quyền phải có trách nhiệm và bổn phận lo cho những thành phần kém may mắn này.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/02/01/nhan-ban-cuong-thuong-nhu-cau-vat-chat/

 

 

Nhân Bản Cương Thường: Tinh Thần & Giáo Dục

 

Nhu Cầu Tinh Thần

Trong cuộc sống của mỗi người ngoài nhu cầu ăn-mặc, cư trú còn một nhu cầu khác thuộc về mặt tinh thần. Tinh thần phải được hiểu một nghĩa rộng lớn chứ không đơn thuần là mặt tâm linh.

Khi nói đến tâm linh là nói đến tôn giáo, tín ngưỡng. Tôn giáo, tín ngưỡng phải tách rời ra khỏi hệ thống cầm quyền. Có nghĩa là chính quyền hoàn toàn không tham dự vào các đoàn thể tôn giáo, các sinh hoạt trên lãnh vực tâm linh. Nhiệm vụ của chính quyền là để điều hợp các sinh hoạt của xã hội cho nhịp nhàng chứ không phải điều hòa tâm linh của mỗi cá nhân trong xã hội. Chuyện tâm linh là một lãnh vực hoàn toàn khác mà chính quyền không nên tham dự vào. Chính quyền nào xâm nhập vào tôn giáo để đưa ra chính sách kiểm soát tâm linh tức là đã vi phạm Nhân Bản Cương Thường. Chính quyền nào ngăn cản sự sinh hoạt của tín ngưỡng, của tôn giáo tức là đã vi phạm Nhân Bản Cương Thường. Chính quyền nào dựa vào niềm tin tôn giáo để đưa ra chính sách tức là đã vi phạm nhân bản cương thường mà chuyện phá thai (sẽ phân tích chi tiếc trong quyền thân thể của con người), hoặc chuyện bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo quân đội mà ông thượng nghĩ sĩ, Tommy Tuberville, đã ngăn cản vì chủ trương của quân đội giúp đỡ những ai muốn phá thai là thí dụ điển hình.

Tôn giáo phải phục vụ Con Người cho nên bất cứ tín ngưỡng nào kêu gọi sự giết hại người khác, hoặc làm thiệt hại về mặt tài chính, tinh thần của những cá nhân khác tức là đã đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường. Bất cứ cá nhân nào dựa vào tín ngưỡng của mình để xem những tín ngưỡng khác là “kẻ thù” thì đã đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường. Bất cứ cá nhân nào dựa vào tôn giáo để lạm dụng tiền bạc, tình dục với các tín đồ tức là đã vi phạm Nhân Bản Cương Thường.

Tinh thần được hiểu sau khi đã đạt được cái ăn-mặc, cư trú thì con người còn có nhu cầu phục vụ tinh thần qua văn hóa, liên hệ bạn bè, hoặc thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên. Tinh thần và vật chất là hỗ tương nguyên nhân được Lý Đông A coi như một trong những quy luật nền tảng về nhân bản. Bất cứ cá nhân, đảng phái, công ty, hoặc cơ cấu chính quyền nào ngăn cản liên hệ bạn bè, văn hóa, hoặc phá hoại thiên nhiên tức là đã vi phạm Nhân Bản Cương Thường.

Nhu cầu giáo dục

Con Người khác con vật ở sự giáo dục. Giáo dục được hiểu ở một nghĩa rộng gồm cả tự bản thân giáo dục, gia đình giáo dục, xã hội giáo dục, và trường học giáo dục. Sự học hỏi của Con Người bắt đầu từ khi lọt lòng mẹ và tiếp tục học hỏi cho đến khi nằm xuống lòng đất thì mới chấm dứt sự học hỏi. Ai cho rằng sự học hỏi chấm dứt thì cá nhân đó đã không hiểu rõ học hỏi là gì.

Con Người sinh ra đều có những khả năng riêng biệt cho chính mỗi người. Những khả năng riêng biệt này ở nhiều trình độ khác nhau. Những khả năng này chỉ được phát triển khi có cơ hội được giáo dục nhằm mục đích phát hiện, bồi dưỡng khả năng đã có sẵn trong mỗi người. Đây là điều rất quan trọng bởi nếu sự giáo dục sai, không phát hiện đúng khả năng của cá nhân để cá nhân làm một công việc không phù hợp với khả năng của chính mình tức là hệ thống giáo dục đã giết hại đi những thiên tính (khả năng có sẵn) mà mỗi cá nhân đã có trong chính bản thân mình.

Gia đình giáo dục là trách nhiệm của cha mẹ. Tuy nhiên không hẳn cha mẹ nào cũng có trình độ giáo dục cho nên cần phải có một nơi để các cha mẹ học hỏi sự giáo dục con cái mình từ lúc mới sinh ra cho đến lúc trẻ trưởng thành. Cần phải có một tổ chức sinh hoạt trong việc chỉ dẫn, chia sẻ kinh nghiệm gia đình giáo dục của các bậc cha mẹ với các cha mẹ khác. Chỉ khi nào cha mẹ hiểu được cái gì gọi là cương thường của con người (nhân loại) thì lúc đó sự ảnh hưởng của giáo dục gia đình mới có thể giúp đỡ đứa bé lớn lên hiểu rõ trách nhiệm của chính mình trong vị trí của cá nhân đối với gia đình, họ hàng, làng xóm, xã hội và quốc gia.

Cũng cùng thời gian đó, một hệ thống giáo dục từ nhà trường cần phải giúp đỡ các trẻ từ lớp mẫu giáo cho đến hết đại học. Cần phải có chính sách giáo dục miễn phí từ lớp mẫu giáo cho đến hết bậc đại học mà bậc đại học chỉ là sự lựa chọn chứ không phải là bắt buộc. Với kỷ nguyên mới, với những kỹ thuật mới của thế giới, một cá nhân trong xã hội phải học xong chương trình đại học và bộ máy nhà nước phải chú tâm vào việc giúp đỡ tất cả thành viên trong xã hội từ 5 tuổi đến 22 tuổi (hoặc người lớn chưa có bằng đại học) hoàn thành chương trình học miễn phí. Đây chẳng phải là điều mới, trái lại, một số nước ở Âu Châu (Na Uy, Thụy Điển, Đức, Đan Mạch, Phần Lan) đã thực hiện chuyện này. Giáo dục là đào tạo Con Người có khả năng sáng tạo -- mà khả năng đó chỉ có dưới một nền giáo dục tự do để cá nhân đem sáng tạo áp dụng vào thực tế xã hội, giúp đỡ xã hội. Giáo dục là đào tạo Con Người để con người đó được trang bị tri thức nghề nghiệp hầu tạo cuộc sống cho bản thân và đóng góp cho xã hội ở tương lai.

Vậy thì giáo dục không phải là những giáo điều do nhà cầm quyền đưa ra như hệ thống giáo dục của VN hiện giờ.  Nền giáo dục để mỗi cá nhân thấy được bổn phận, trách nhiệm của chính mình trong tương quan giữa cá nhân với xã hội và xã hội với cá nhân. Nền giáo dục đó không phải là mục đích để làm giàu cho cá nhân sau này mà là để phục vụ gia đình, làng xóm, xã hội và quốc gia. Giáo dục nhà trường không thể nào đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường.

Khi đứa trẻ trưởng thành để hòa nhập vào xã hội thì xã hội giáo dục là hình thức của sự bồi dưỡng những gì đã được dạy dỗ từ gia đình và trường học. Xã hội giáo dục là bước học hỏi để đưa những gì đã học ở trường, ở nhà vào thực tế của đời sống xã hội. Xã hội giáo dục xảy ra ở các công sở, công ty, các tổ chức xã hội dân sự, các tổ chức chuyên ngành v.v…. Khi cá nhân đã được đào tạo trên căn bản của Nhân Bản Cương Thường thì khi vào cuộc sống xã hội -- sẽ biến xã hội là một xã hội nhân bản hơn, quan tâm về Con Người nhiều hơn; sẽ tạo ra một cuộc sống thái bình trong xã hội mình đang sống và có thể lan tỏa ra ở những quốc gia khác trong cách ứng xử với nhau dựa vào Nhân Bản Cương Thường để hành động.

Nhu cầu giáo dục quan trọng không thua gì nhu cầu ăn-mặc bởi Lý Đông A đã nói “giáo dục là khởi điểm và chung điểm của chính trị” mà “chính trị là thiết kế và chấp hành nhân sinh”. Để có thể biết cách thiết kế cũng như chấp hành nhân sinh, Con Người cần phải được giáo dục dựa trên căn bản Nhân Bản Cương Thường.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/02/01/nhan-ban-cuong-thuong-tinh-than-giao-duc/

 

 

Nhân Bản Cương Thường: An Ninh & Y Tế

Nhu cầu an ninh

Con Người luôn luôn mong muốn bình an cho chính mình và gia đình mình. An ninh là một nhu cầu cần thiết. Nhu cầu an ninh để bảo đảm tính mạng, tài sản không bị cướp giựt. Con Người thời nguyên thủy đã tự động ngồi lại với nhau để bảo vệ lẫn nhau trên lãnh vực an ninh cho bản thân lẫn những vật chất đã tạo ra trong cuộc sống. Sự hình thành những bộ lạc hoặc xã hội ở phương diện rộng lớn là tạo được sự an ninh cho mỗi thành phần sống trong xã hội đó.

Nhu cầu an ninh này đi kèm theo là trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với xã hội, trách nhiệm của xã hội đối với mỗi cá nhân sống trong xã hội đó. Cả hai bên phải tương tác, tuy có đối lập về quyền lợi nhưng trong cái đối lập này sẽ tạo ra một sự thống nhất để cả hai bên cùng có lợi. Khi cá nhân có sự an ninh thì cá nhân sẵn sàng thực hiện trách nhiệm của mình trong xã hội để tạo một xã hội an ninh, không bị xáo trộn. Cá nhân tác động vào xã hội và ngược lại xã hội tác động vào cá nhân để thực hiện nhu cầu an ninh thành thực tiễn trong cuộc sống của mỗi người, trong cuộc sống của xã hội.

Không thể nào có một xã hội an ninh khi mà chính cá nhân trong xã hội đó không có sự an ninh. Từ sự mất an ninh của cá nhân sẽ dẫn đến sự mất an ninh của xã hội mà tình trạng VN là một thí dụ điển hình. Sự mất an ninh này được hiểu ở một nghĩa rộng lớn. Tình trạng tham nhũng, hối lộ, và sự đàn áp quyền tự do của con người đã tạo xã hội VN mất an ninh và từ đó -- tham vọng của Tàu cộng càng ngày càng hiện rõ hơn trên lãnh thổ VN mà nhà cầm quyền VN không giải quyết được bởi xã hội hoàn toàn không có an ninh.

Nhà cầm quyền VN bỏ công sức để đàn áp người dân thay vì cùng người dân bảo vệ an ninh, lãnh thổ của dân tộc. Khi chính người dân không có sự an ninh cho bản thân thì sự an ninh cho dân tộc cũng chẳng tốt hơn bởi quan hệ giữa cá nhân và xã hội là quan hệ hữu tương. Khi những con người sống trong xã hội đó không có quyền tham dự vào việc bảo vệ an ninh cho chính mình, khi người lãnh đạo trong xã hội tiếp tục đàn áp tinh thần lẫn thể xác của người dân thì làm sao có chuyện người dân thực hiện an ninh cho xã hội và dân tộc khi giặc ngoại xâm âm thầm thôn tính đất nước bằng hình thức kinh tế, hiệp ước an ninh -- bảo vệ lãnh thổ mà Trung Cộng đang cùng đãng (cố ý viết sai dấu) csvn tiến hành từng bước một.

Vậy thì bất cứ quốc gia nào, bất cứ dân tộc nào, bất cứ nhà lãnh đạo nào làm ảnh hưởng đến nền an ninh của một quốc gia, của một dân tộc, hoặc của một cá nhân trong xã hội tức là đã vi phạm Nhân Bản Cương Thường. An ninh không những về mặt thể xác mà cả tinh thần, kinh tế, lãnh thổ, tài nguyên, môi sinh.

Có an ninh thì mới có hòa bình. Tự do là ngôn ngữ dễ gây hiểu lầm về khả năng hành động của cá nhân trong xã hội. Chỉ khi nào giáo dục đem lại sự tự chủ nơi con người để sống thích hợp với xã hội và thiên nhiên mới đem lại an ninh, hòa bình cho nhân loại.

Nhu cầu y tế

Nhu cầu y tế của hôm nay quan trọng hơn bao giờ hết bởi Con Người của hôm nay đang đối diện với một xã hội tân tiến nhưng đồng thời cũng đối diện với những cơn bệnh do sự tân tiến của xã hội tạo ra. Những phương tiện vật chất của thế kỷ hôm nay được sản xuất không ít thì nhiều đều có hóa chất và những hóa chất này đã làm sản sinh ra những căn bệnh mà mấy trăm năm trước không có. Chính vì thế nhu cầu y tế được xếp vào nhu yếu.

Tất cả mọi người đều phải được lo lắng về sức khỏe khi bệnh hoạn mà không cần biết là cá nhân đó có tiền hay không có tiền. Cơ quan nhà nước phải trợ giúp tài chính cho những công ty sáng chế ra những thuốc mới để giúp cho người bệnh tốt hơn. Các công ty nhận tiền của nhà nước hay không nhận tiền của nhà nước, khi sáng chế ra một loại thuốc nào đó, mục đích là để phục vụ xã hội chứ không phải để làm giàu như giới tư bản công ty thuốc ở tại Mỹ. Tất cả các công ty, các cơ quan có tầm ảnh hưởng đến ngành y tế đều phải được sự giúp đỡ của nhà nước, đồng thời phải chịu sự giám sát giá cả của nhà nước để thành phần dân chúng sống trong xã hội có khả năng trả tiền những loại thuốc cần thiết cho bản thân.

Làm giàu trên sức khỏe của con người là một hình thức làm giàu không có lương tâm bởi người xưa thường nói “lương y như từ mẫu”. Câu nói này không còn phù hợp với thời đại của hôm nay; trái lại, phần đông những công ty, những cá nhân làm trong ngành y khoa đều là để làm giàu thay vì là để giúp xã hội. Ngành y khoa của Việt Nam hiện giờ còn khủng khiếp hơn nữa bởi nhân viên làm việc tại các bệnh viện VN xem bệnh nhân như là một con vật chứ không đối xử như một Con Người đối với Con Người.

Bất cứ nhà lãnh đạo nào mà không lo được y tế cho tất cả những người sinh sống trong xã hội, trong quốc gia đó tức là lãnh đạo đã vi phạm Nhân Bản Cương Thường.

Tuy rằng y tế là nhu yếu nhưng không phải ai cũng có thể tự chữa bệnh cho mình, cho nên tất cả mọi người đều phải mua bảo hiểm y tế cho chính những cá nhân trong gia đình của mình với giá cả tùy theo khả năng tài chính của mỗi cá nhân. Bảo hiểm y tế thuộc dạng nào (đóng thuế, hay bỏ tiền ra mua) là do quyết định của những người chuyên môn trên lãnh vực tài chính để đưa ra một giải pháp khả thi nhằm bảo đảm mọi người có bảo hiểm y tế -- để khi cần thì không phải bán hết cả tài sản dành dụm suốt cuộc đời đi làm như tình trạng y tế của Mỹ hiện giờ.

Mỗi cá nhân sống trong xã hội có nhu cầu y tế và phải được xã hội tìm cách giải quyết nhu cầu đó. Tuy nhiên, mỗi cá nhân sống trong xã hội cần phải có tinh thần trách nhiệm với chính bản thân mình, nghĩa là không làm những chuyện có ảnh hưởng đến sức khỏe của mình để bắt toàn xã hội gánh cái hành động vô trách nhiệm đó. Thí dụ: một cá nhân không có ý thức trách nhiệm, dùng loại chất kích thích tố vào người để rồi phải bất tỉnh, đưa vào nhà thương cứu cấp. Hình ảnh những người Mỹ nghiện thuốc opioid để rồi bất tỉnh là những người vô trách nhiệm với bản thân. Đây là hành động vô trách nhiệm của cá nhân để làm thiệt hại đến ngành y tế, đến toàn xã hội. Cần phải có biện pháp để tránh những cá nhân không có tinh thần trách nhiệm với bản thân mình, làm hại đến hệ thống y tế hiện có dành cho mọi người.

Cần phải giáo dục các cá nhân sống trong xã hội hiểu được tinh thần hiến tặng thân thể nếu chẳng may mình phải qua đời thì có thể cung cấp những bộ phận trong cơ thể cho những người bệnh cần thay thế những bộ phận trong con người. Đây chính là lối sống và ứng xử có trách nhiệm, nhân bản với xã hội -- cho dù mình nằm xuống, vẫn có thể đóng góp phần cuối cùng của thân thể cho người khác trước khi thân thể mình được thiêu táng hay chôn cất. Cần phải nhấn mạnh đây là sự hiến tặng, giúp đỡ và người hiến tặng, giúp đỡ hoàn toàn không nhận một phần thưởng tài chính nào. Đây là điểm chính để tránh tình trạng mua bán bộ phận thân thể của con người. Bất cứ sự mua bán bộ phận của con người tức là đã đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường.

Y tế chỉ là yếu tố giúp đời sống con người khả quan hơn nhưng chỉ khi nào con người được giáo dục để nắm vững sinh mệnh bản thân mà không xâm phạm đời sống của cá nhân khác để tồn tại.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/02/15/nhan-ban-cuong-thuong-an-ninh-y-te/

 

 

Nhân Bản Cương Thường: Nòi Giống & Hợp Tác

Nhu cầu phát triển nòi giống

Khi đã có đủ ăn, đủ mặc, chỗ ở để khỏi bị lạnh thì Con Người có một nhu cầu khác là phát triển giống nòi. Từ một cá nhân hợp tác với những cá nhân khác để giải quyết cái ăn, cái mặc, chỗ ở thì nhu cầu kế đến là một cá nhân Nữ hợp tác với một cá nhân Nam để giữ nòi giống không bị diệt chủng. Đây cũng chính là sự tự tính (thiên tính) nhằm mục đích phát triển nòi giống. Gia đình được hình thành bởi do nhu cầu phát triển giống nòi.

Trong tiến trình phát triển nòi giống này, chữ Trinh trong cuộc sống gia đình được nhà tư tưởng Lý Đông A nhắc đến. Trinh ở đây phải hiểu là một vợ, một chồng. Trinh ở đây là chuyện phát triển nòi giống không phải bạ đâu phát triển đó mà là sự phối hợp duy nhất giữa một người Nam với một người Nữ để sinh con đẻ cái; chỉ làm chuyện phát triển giống nòi với người vợ, người chồng của mình thôi chứ không phải làm chuyện này với tất cả mọi người.  Trinh ở đây được hiểu là có cùng huyết thống thì không thể làm chuyện phát triển giống nòi như anh lấy em, cha lấy con, mẹ lấy con, hoặc họ hàng có quan hệ huyết thống lấy với nhau.

Con Người khác loài thú là ở chỗ Trinh này. Loài thú thì đực-cái cứ mặc sức làm chuyện truyền giống mà không cần biết sự quan hệ máu mũ ra sao, hoặc làm chuyện truyền giống với bất cứ con vật đồng loại khác phái bởi loài thú không có tri thức để hiểu chuyện truyền giống này cần phải có tính Trinh.

Sự phức tạp của xã hội hiện đại đã làm cho Con Người không đặt nặng nhu yếu phát triển giống nòi để cuối cùng tạo ra sự lão hóa mà các xã hội tân tiến như Nhật, Âu Châu đang gặp phải. Lực lượng lao động tại Nhật không có đủ người để cung cấp cho nhu cầu việc làm của các cơ sở thương mại. Theo số thống kê của năm 2021, số người trên 65 tuổi ở Nhật là 36.21 triệu (29.8% tổng số dân) và số người dưới 14 tuổi là 14.78 triệu (11.8% tổng số dân).  Cho nên nhu cầu này cần có sự tác động của người lãnh đạo trong việc giới hạn giờ lao động để mỗi Con Người ở tuổi trưởng thành có thời gian dành cho chính bản thân và gia đình -- hầu tạo điều kiện phát triển giống nòi không bị lão hóa như ở các nước tân tiến hiện nay. Cần phải có chính sách cho vấn đề phát triển giống nòi để dân số không đi quá đà và đồng thời cân bằng lực lượng lao động với lực lượng không còn sức lao động để tránh tình trạng lão hóa như các nước tân tiến đang đối diện.

Gia đình là nền tảng của xã hội cho nên sinh hoạt của gia đình cần phải được nghiên cứu để có chính sách ưu đãi hầu tạo điều kiện cho mọi người -- ngoài chuyện làm kinh tế để sống thì có thời gian để tạo ra nền tảng gia đình cho chính bản thân, hầu đóng góp trong tiến trình tránh lão hóa ở những quốc gia phát triển kinh tế quá cao. Chuyện này có thể thực hiện được nếu có hệ thống giáo dục nhân bản, mục đích để đào tạo ra Con Người thay vì đào tạo ra nhân tài nhưng thiếu nhân bản, nhân tính, nhân sinh, nhân cách, nhân chủ.

Những gì đi ngược lại tự nhiên cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng đặc biệt trong hệ thống gia đình. Chuyện dùng khoa học kỹ thuật để tạo ra đứa bé trong phòng thí nghiệm là chuyện đi ngược lại sự tự nhiên của Con Người cho nên cần phải ngăn cấm. Ngay cả dùng khoa học kỹ thuật để tạo ra bào thai trong bụng phụ nữ cũng cần phải có luật pháp quy định rõ ràng về tuổi tác của người phụ nữ bởi không thể nào thực hiện chuyện này với người phụ nữ trên 60 tuổi, cái tuổi mà hệ thống kinh nguyệt đã hết và nhu cầu sinh đẻ không còn phù hợp ở lứa tuổi này.

Sự phát triển nhân số của loài người phải phù hợp với thiên nhiên và xã hội. Bất cứ quốc gia, văn hóa, tôn giáo nào chủ trương phát triển qua sự đàn áp, tiêu diệt dân tộc khác hay chiếm hữu tài nguyên để hủy diệt dân tộc khác là đi ngược lại tinh thần Nhân Bản Cương Thường.

Nhu Cầu Hợp Tác Xã Hội

Phần cuối cùng của nhu yếu là nhu cầu hợp tác xã hội. Đây là nhu cầu cần thiết của những cá nhân sống trong xã hội đó. Tương quan (hỗ tương) giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội là tương quan cần thiết để tạo cho cá nhân được thăng tiến trong cuộc sống vật chất lẫn tinh thần. Tương quan này sẽ tạo ra những tổ chức xã hội dân sự tự giúp đỡ những thành phần trong xã hội (có những điểm tương đồng giống nhau) hầu giúp chính cá nhân và chính tổ chức xã hội lớn mạnh để tạo ra một xã hội nhân bản hơn, kiện toàn hơn, an ninh hơn.

Các tổ chức xã hội dân sự ngoài việc giúp đỡ các thành phần cần sự giúp đỡ, các tổ chức xã hội dân sự đóng góp một công sức rất lớn vào việc xây dựng một cơ chế quản trị chính trị không đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường. Với nhiều tổ chức xã hội dân sự với những nghề nghiệp khác nhau, kinh nghiệm khác nhau sẽ nâng đỡ lẫn nhau trong hệ thống sinh hoạt của toàn xã hội trên toàn quốc nhằm mục đích tạo sự thống nhất, đồng nhất.

Sự sinh hoạt các tổ chức xã hội dân sự tạo căn bản cho sự học hỏi trong xã hội giáo dục. Cách làm việc của các tổ chức xã hội dân sự với ý thức trách nhiệm cao, với tinh thần phục vụ xã hội, với mục đích để nâng đỡ thành viên và các thành phần khác trong xã hội cùng nhau thăng tiến sẽ tạo ra một xã hội nhân bản, nhân tính, và nhân chủ.

Nếu gia đình đóng yếu tố chính trong việc hình thành xã hội tốt hay xấu thì các tổ chức xã hội dân sự là yếu tố thứ hai trong tiến trình xây dựng một xã hội mà mọi người cùng tiến, cùng nhận lãnh trách nhiệm trong hệ thống chính trị được hiểu theo nghĩa là “thiết kế và chấp hành nhân sinh”. Không ai hiểu rõ đời sống của người dân bằng các tổ chức xã hội dân sự, được hình thành từ những cá nhân quan tâm về con người và xã hội, bám sát vào đời sống thực tế của người dân. Các tổ chức xã hội dân sự sẽ làm giảm gánh nặng của cơ cấu chính quyền trong việc điều hành sự sinh hoạt của quốc gia, đặc biệt dính dáng đến đời sống của người dân.

Cho nên sự hợp tác xã hội qua hình thức của các tổ chức xã hội là nhu cầu nhu yếu của xã hội mà một chính quyền nhân bản cần phải tạo đủ mọi điều kiện cho các tổ chức xã hội dân sự hình thành, hoạt động hữu hiệu với luật pháp bảo đảm hầu tránh tình trạng những tổ chức xã hội dân sự giả mà đãng (cố ý viết sai dấu) cộng sản Việt Nam hình thành để đánh đồng giữa các tổ chức xã hội dân sự độc lập và tổ chức xã hội dân sự do đãng chỉ đạo.

Nhu cầu nhu yếu của Con Người được trình bày bên trên có thể thay đổi theo thời gian bởi ở mỗi thời điểm của lịch sử, nhu yếu của Con Người luôn luôn thay đổi. Trong tinh thần của tư tưởng Duy Dân, chúng ta phải biết thay đổi theo nhu cầu của thực tế chứ không thể cứng nhắc trong những nhu yếu của Con Người. 

Nhu yếu là những đòi hỏi về vật chất (ăn, mặc, cư trú), phát triển giống nòi (gia đình), an ninh, tinh thần, giáo dục, y tế, hợp tác xã hội (tương quan giữa cá nhân với xã hội và ngược lại) để làm cho cuộc sống của Con Người thăng tiến hơn trong chiều hướng hướng thượng.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2023 (Việt lịch 4902)

Nguồn: https://nganlau.com/2024/02/15/nhan-ban-cuong-thuong-noi-giong-hop-tac/

 

 

Nhân Bản Cương Thường: Nhu Cầu Sinh Mệnh (Tự chủ) P1

  Để giải quyết nhu cầu nhu yếu, Con Người phải tự làm chủ lấy mình, tự mình quyết định cho cuộc sống của chính mình và xã hội mình đang sốn...