Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2025

Xã Hội Sinh Mệnh (P1)

Trong xã hội dân chủ, hiến pháp thường nhắc tới tự do, bình đẳng, nhân quyền, dân quyền ... vì mọi người sinh ra như nhau khi có cùng tinh thần, thể xác. Tuy nhiên, con người có bộ óc giống nhau nhưng suy nghĩ, học hỏi, hấp thụ kiến thức khác nhau cho dù được giáo dục như nhau. Thể xác cũng vậy, cùng là tim, phổi, ruột gan nhưng cơ thể mỗi người phát triển khác nhau: mập, ốm, cao thấp, mạnh yếu....

Do đó, hiến pháp có quy định nhân quyền, dân quyền, công bằng, giáo dục, cơ hội thăng tiến... nhưng xã hội vẫn có khác biệt khi mỗi cá nhân mang đức, nghiệp và khả năng biết (tri) khác nhau.  Cho nên các nhà lãnh đạo chính trị, cách mạng phải biết hiến pháp sẽ phải như thế nào để đối phó với sự khác biệt trong mỗi cá nhân, xã hội khi "dụng nhân như dụng mộc". Vậy phải biết "mộc" như thế nào hay nói cách khác "nhân" như thế nào khi biết mình, biết người?

Để thực hiện cuộc cách mạng cho VN thời đại 2000s, Lý Đông A (LĐA) đưa ra thuyết Duy Dân dựa trên những cá nhân có tu dưỡng để nắm vững sinh mệnh tâm lý, xây dựng xã hội qua Cơ Năng Hiến Pháp, kinh tế nhân bản. Lối nhìn của LĐA về xã hội được ghi nhận như "xã hội sinh mệnh", gọi là các tầng:

A. Đức tầng: Lý tưởng tầng, nhân cách tầng và sinh mệnh tầng.

B. Nghiệp tầng: Sáng ý nghiệp, quyết đoán nghiệp và thực hành nghiệp.

C. Tri tầng: Tiên tri tiên giác, hậu tri hậu giác, bất tri bất giác.

Vậy thì chúng ta có thể hiểu như thế nào?

A. Đức tầng

Quan niệm về phúc đức là nền tảng của đạo học Đông phương được truyền bá qua tử vi, dịch lý, phong thủy chịu chi phối bởi Âm-Dương (Lão Tử). "Âm" (đức) được hiểu như sự tương truyền qua nhiều đời (kiếp trước) và có ảnh hưởng đến hiện tại. "Dương" (kiếp này) được hiểu là những tính tốt do bản thân thực hiện và duy trì trong đời sống hiện tại (có hoặc không có) liên quan đến quá khứ. Những cá nhân có "đức" chưa hẳn là có "tài" (khả năng) để thực hiện ích lợi xã hội. Tuy nhiên xã hội có nhiều người đức độ thì sẽ bình yên, an hòa hơn là một xã hội thiếu đức. Đó là căn bản của đời sống (sinh mệnh) xã hội. LĐA đi xa hơn để vạch rõ hơn: 

Lý tưởng tầng: "Lý" đến từ suy nghĩ trong tư "tưởng". Lý tưởng là "giấc mơ" mà mỗi cá nhân theo đuổi suốt cuộc đời. Nhưng không phải ai cũng sống có lý tưởng. Tại sao? Theo tử vi thì lá số của bạn có sao tốt, có sự nghiệp, có danh, tài (làm quan hay chuyên gia…) nhưng không nói rõ thuộc dạng nào. Trong thực tế đời sống thì có thể thấy sự khác biệt khi đa số người thành công như vậy không phải ai cũng có cuộc sống lý tưởng.

Lý tưởng là có tầm nhìn cao thượng, xa hơn phạm vi gia đình, gia tộc. Lý tưởng có mục đích phục vụ tha nhân, xã hội, những kẻ kém may mắn hơn bình thường. Lý tưởng đòi hỏi hy sinh và đức độ cũng như khôn ngoan, sáng suốt. Nhưng không phải ai có lý tưởng sẽ thành công hay sẽ là người tốt. Người có lý tưởng mù quáng, thiếu sáng suốt, suy nghĩ sẽ không làm nên cơm cháo gì khi lý tưởng không thiết thực.

Cũng có thể là lý tưởng tốt đẹp nhưng cá nhân không đủ tu dưỡng, đức độ, tài năng để thực hiện. Trường hợp khác là có đức để đạt được ngôi vị cao cả khi thực hiện lý tưởng nhưng không đủ tài năng để chủ động (tự chủ) và thường bị kẻ khác lợi dụng, khuynh đảo. Cá nhân sống có lý tưởng có thể đến từ nghiệp (kiếp trước) hay tự phát do học hỏi, quan sát trong đời sống hiện tại.

Nhân cách tầng: Khi cá nhân ý thức mình là một cá thể độc lập với Thân và Tâm thì đó là "ngã" (cái tôi) xuất hiện. Từ đó mỗi cá nhân chọn cho mình một đặc tính (tư cách). Nếu cá nhân ý thức được giá trị "người" trong thiên nhiên so với các sinh vật khác và tôn trọng "người" thì đó là nhân cách (cách sống như con người). Nếu dựa vào sức mạnh, khôn ngoan, may mắn để lấn hiếp, lợi dụng kẻ khác thì đó là kẻ phá hoại xã hội.

Giáo dục (từ xã hội) có thể giúp thay đổi cá nhân nhưng giáo dục sai lầm lại làm tăng gia sức hủy hoại xã hội. Do đó, giáo dục đến từ sự quan sát, tự học hỏi sẽ xây dựng mỗi cá nhân khác nhau (đức, nghiệp). Quan sát là khởi điểm và chung điểm của giáo dục. Giáo dục lại là khởi điểm và chung điểm của chính trị. Chính trị là thiết kế và chấp hành nhân sinh: xây dựng nền giáo dục con người và xã hội. 

Vậy nhân cách của người lãnh đạo chính trị cho biết giáo dưỡng chế độ, xã hội sẽ như thế nào. Do đó đức đóng vai trò quan trọng đối với các nhà lãnh đạo vì hiếm có, khó thực hiện hơn tài vì người tài chỉ muốn phô trương, thực hiện cái "tài" bất kể lợi hại khác với đức phải suy nghĩ chính chắn. Khi con người không có (hay không tìm ra) lý tưởng sống thì giữ nhân cách là điều chính yếu để con người tham dự xã hội.

Sinh mệnh tầng: Cuối cùng của đức tầng là sinh mệnh, được coi như giao phó cho số mạng (sinh sao chịu vậy). Tuy không có lý tưởng nhưng mệnh chịu ảnh hưởng thời gian, không gian, tính di truyền, giáo dục, sở thích vẫn có thể đóng góp cho xã hội qua ảnh hưởng của Nghiệp tầng.

Xã Hội Sinh Mệnh (P2)

Trần Công Lân

Tháng 4 năm 2025 (Việt lịch 4904)

https://nganlau.com/2025/07/01/xa-hoi-sinh-menh-p1/

 

Xã Hội Sinh Mệnh (P2)

B. Nghiệp tầng

Nghiệp tầng là phạm trù liên quan đến nghiệp. Ý niệm về nghiệp (theo Phật học) là một ý niệm phức tạp. (1) Nghiệp là truyền kiếp, từ kiếp trước liên quan đến kiếp sau khi điều kiện chín mùi thì quả xảy ra không theo một lịch trình nhất định nào. (2) Nghiệp xảy ra vì con người "vô minh" (thập nhị nhân duyên) đưa đến hành động và ngũ quan (ngũ uẩn) tác động lôi cuốn con người tạo nghiệp. (3) Nghiệp quá khứ không sửa được. (4) Nghiệp hiện tại tiếp tục xảy ra, vậy nghiệp tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng đến cá nhân, xã hội như thế nào?

Sáng ý nghiệp: Những nhà phát minh là có mang nghiệp "sáng ý". Đây là những người có ý kiến đóng góp cho xã hội vì sáng kiến nảy ra trong tâm họ đến từ đâu? Vì sao "nó" xảy ra trong tâm người này mà không xảy ra với người khác? Khi sáng kiến đưa đến hành động tạo ra sản phẩm ích lợi cho xã hội.

Vì danh lợi con người thi đua sáng kiến bất kể tốt xấu. Tốt ít xấu nhiều. Xấu gây tai hại khiến xã hội chịu thiệt hại nhiều vì phải sửa chữa, ngăn chận cái xấu lan tràn tác hại. Cũng là những nhà phát minh nhưng có người phát minh sản phẩm tốt, ích lợi xã hội, kinh tế trong khi có người chỉ gặp rắc rối, kiện tụng, thiệt hại nhiều hơn do hậu quả của nghiệp. 

Quyết đoán nghiệp: Có những người sinh ra để thi hành những quyết định mà người khác không dám, không muốn hay không đủ khả năng. Đó là những giám đốc, quản lý công ty, cơ xưởng. Các nhà buôn, tiểu thương cũng thuộc hạng này khi quyết định theo đuổi các ngành thương mại cung cấp hàng, sản phẩm cho xã hội.

Có hạng người vì đam mê, có hạng người thích lợi dụng thời cơ để thủ lợi, làm ít ăn nhiều hơn là mục đích phục vụ nhu cầu xã hội. Cũng do ảnh hưởng của nghiệp, người có "quyết đoán nghiệp" sẽ gặp công việc thích hợp, hợp ý, thuận lợi nếu có đức. Ngược lại, cũng là vai trò phải quyết đoán nhưng toàn chuyện gai góc, nhức đầu, vất vả.

Thực hành nghiệp: Là hạng người "làm công": công nhân, tư chức, công chức hay chuyên môn trung cấp chỉ thực hiện những gì đã được vạch ra, huấn luyện, học tập... hoặc hạng người vì bất đắc dĩ (không đủ tài năng, khả năng để làm việc khác) nên chỉ làm việc bởi người khác sai khiến, điều động. Có người cũng là thầy, thợ nhưng suốt đời chỉ làm một nơi, một hãng. Có người khác thì năm chìm bảy nổi, chín cái long đong cho dù ngành nghề như nhau cũng chỉ vì nghiệp nặng nhẹ khác nhau.

Xã Hội Sinh Mệnh (P3)

Trần Công Lân

Tháng 4 năm 2025 (Việt lịch 4904)

Nguồn: https://nganlau.com/2025/07/01/xa-hoi-sinh-menh-p2/

 

 

Xã Hội Sinh Mệnh (P3)

 

C.  Tri tầng

Tri tầng chú trọng đến khả năng biết, thấy (qua sự hiểu biết, kiến thức) của mỗi cá nhân tuy rằng mỗi người đều có thị giác (mắt) để quan sát học hỏi nhưng Tâm có ghi nhận, giữ lâu dài và vận dụng cái biết vào cuộc sống hay không. Cũng do chịu ảnh hưởng của Đức và Nghiệp nên có người nhớ dai, học giỏi nhưng không thành tài hay giúp ích cho xã hội.

Tiên tri tiên giác (biết trước, thấy trước): Có hạng người do tu dưỡng đạt tới trình độ "biết trước, thấy trước" sự việc xảy ra do quan sát các sự kiện, dữ kiện liên hệ (thấy trước không phải bằng mắt mà bằng trí quan sát). Khả năng này liên quan tới Đức và Nghiệp chứ không do đi học ABC mà có.

Hậu tri hậu giác (biết sau, thấy sau): Có hạng người do học hỏi mà biết sau khi sự học hoàn tất (hậu tri) và từ đó đạt được cái thấy do hậu quả của sự học và biết (hậu giác). Đó là hạng người có thể huấn luyện và sử dụng lâu dài.

Bất tri bất giác (không biết, không thấy): Có hạng người tuy có huấn luyện nhưng vẫn không nắm lấy cái biết (bất tri) và cũng không thấy cái cần phải làm của mình (bất giác) vì tâm trí không tập trung hay không chấp nhận vì nhiều lý do. Đây không phải loại người mắc bệnh tâm trí mà chỉ là hạng bê bối, thờ ơ, mang tâm lý lợi dụng xã hội, tha nhân.

Cũng trong cùng tài liệu Sinh Mệnh Tâm Lý, LĐA nhắc đến

“Chủ quan thiên tính và tâm lý cơ cấu: Chủ quan thiên tính và tâm lý cơ cấu phối hợp với khách quan, thời gian và không gian kinh qua các phạm trù nhu yếu và khái niệm mà hình thành các tính nghiệp, tình nghiệp và ý nghiệp. Tính nghiệp là do tàng-trụ-tính, tàng- trụ-thức và nghiệp hành (karma) xã hội mà hình thành. Tình nghiệp và ý nghiệp cũng vậy, tức là những thiên tính hậu thiên (tập quán và xã hội nhân quả, duyên nghiệp)”.

a. Tính Nghiệp: Ca dao tục ngữ VN có câu "cha mẹ sinh con, trời sinh tính". Từ cá tính cho thấy Tâm của cá nhân đã suy nghĩ, học hỏi những gì để thực hiện trong đời sống bản thân. Theo năm tháng, hành động của Thân kết thành Mệnh. Đó là ý nghĩa của Tính-Tâm-Thân-Mệnh.

b. Tình Nghiệp: Con người có lý trí và tình cảm nhưng không phải ai cũng cân bằng được hoạt động của Lý và Tình. Đó cũng là lý do để tu dưỡng vì sự thiên lệch của Lý hay Tình đều đưa đến khủng hoảng trong đời sống con người. Con người rối loạn thì xã hội rối loạn. Đó là nguồn gốc của xã hội tâm lý và gia đình tâm lý.

c. Ý Nghiệp: Con người có đầu óc để suy nghĩ nhưng không phải ai cũng có ý chí cho dù có cùng học thức, kiến thức, giáo dục.... Vì sao đứa trẻ từ nhỏ có khuynh hướng ABC? Tại sao cùng sở thích, đam mê, học vấn... mà có trẻ thành công, thất bại cho dù cha mẹ, thầy cô có khuyến khích hay không? Tại sao trẻ trong hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm lại có quyết tâm, năng lực cao hơn đứa trẻ trong bình yên? Có kẻ nản lòng thối chí nửa đường hay thay đổi với điều kiện ABC trong khi kẻ khác vẫn duy trì ý chí trước sau như một? Làm sao tạo ý chí và chuyển tải ý chí từ người với người vẫn là điều bí mật mà chỉ có kẻ tu dưỡng thâm sâu mới hiểu (nếu trải qua: Nhân tướng, Ngã tướng, Pháp tướng, và Thọ tướng).

Kết

Như vậy tầng A, B, C là hàng ngang và sự phân chia theo các tầng là hàng dọc. Sinh mệnh tâm lý từ cá nhân (người) vào xã hội, mỗi hạng người là hàng dọc, xã hội là hàng ngang thăng tiến mọi người nhưng thay vì tự lực tiến lên đóng góp cho xã hội (tung hợp) thì con người quay ra chèn ép bóc lột lẫn nhau để thống trị xã hội.

Hiểu Sinh Mệnh Tâm Lý cũng như xã hội sinh mệnh là yếu tố căn bản để biết "phân công, phân lợi, phân mệnh". LĐA đưa ra "toại kỳ sở nhu, tận kỳ sở năng" để có "chính kỳ sở mệnh" vì phải có tu dưỡng để chuẩn bị cho bản thân (cá nhân) nếu muốn đóng góp cho đời sống xã hội (xã hội sinh mệnh) thì mệnh của cá nhân phải phù hợp với "mệnh" của xã hội.

Sinh mệnh cá nhân và xã hội đan (quyền) với nhau để thành cấu trúc Duy Dân. "Chính kỳ sở mệnh" cũng là điều kiện thanh lọc hàng ngũ của Duy Dân vì kẻ giả Duy Dân sẽ không vượt qua được giai đoạn tu dưỡng (toại kỳ sở nhu, tận kỳ sở năng) cho dù (giả sử) có vượt qua thì "chính kỳ sở mệnh" không phải ai muốn cũng được như ý.

"Tính-Tâm-Thân-Mệnh" cũng là một cách khác để nhìn người: khi "Tính" tình của một cá nhân cho biết "Tâm" của cá nhân đó. Tâm được phối hợp với "Thân" (tinh thần và vật chất là hỗ tương nguyên nhân) mà "Thân" thì đi liền với "Mệnh". Biết "Tính" thì có thể đoán "Mệnh". Đó cũng là lý do tài liệu Duy Dân được lưu truyền mà không (hay chưa) phát triển vì kẻ giả Duy Dân có rất nhiều nhưng không dẫn chứng được quá trình tu dưỡng để giải thích nét đặc sắc thuyết Duy Dân của LĐA.

Tư tưởng Duy Dân dành cho những ai có tu dưỡng để nắm (hiểu) xã hội sinh mệnh (Đức-Nghiệp-Tri) chứ không phải dùng để mưu đồ chính trị. Nói đến Duy Dân là nói đến cách mạng. Cách mạng đòi hỏi tu dưỡng. Hãy nói về quá trình tu dưỡng của bạn trước khi đi tìm (hay nói) Duy Dân.

Trần Công Lân

Tháng 4 năm 2025 (Việt lịch 4904)

Nguồn: https://nganlau.com/2025/07/01/xa-hoi-sinh-menh-p3/

 


Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2025

Cơ Năng và Bản Vị

Cơ năng và bản vị là thực tế đời sống của người và vật thể. Mỗi bản vị (con người, công ty, vật thể, bộ phận quản trị quốc gia) đều hình thành từ những cơ năng trong thiên nhiên hoặc trong xã hội.

Mỗi con người trong xã hội vừa là bản vị vừa là cơ năng tùy theo ở vị thế nào trong sinh hoạt của xã hội. Sự chào đời của một cá nhân, cá nhân đó là một bản vị (con người) được hình thành từ những cơ năng khác như tim, phổi, gan, óc, máu, bao tử, ruột v.v…. Những cơ năng trong thân thể Con Người hình thành bản vị cá nhân của con người đó. Dĩ nhiên những cơ năng trong thân thể con người, tự nó phải là bản vị riêng và hoàn hảo. Nếu bản vị của tim không hoàn hảo thì đứa trẻ sinh ra chưa chắc sẽ sống còn hoặc sống khỏe.

Hai cá nhân (Nam-Nữ) hợp thành bản vị gia đình. Bản vị gia đình có thành tố cơ năng: vợ, chồng, con cái (nếu cả hai quyết định có con). Nhiều gia đình hợp thành bản vị gia tộc, làng xóm, dân tộc, và quốc gia.

Cứ mỗi lần một bản vị trở thành một cơ năng để hình thành một bản vị mới, lớn hơn, với mục đích nâng cao cuộc sống về mặt tinh thần lẫn vật chất. Bản vị nào không đạt được mục đích của sự kết hợp thì sẽ vỡ tan theo thời gian mà sự đổ vỡ của gia đình, gia tộc, chế độ là thí dụ điển hình.

Về vật chất thì mọi sự hình thành của các vật chất đều từ sự hình thành của nhiều cơ năng để trở thành bản vị của chính nó. Thí dụ đơn giản là bản vị cây bút chì được hình thành từ những cơ năng thân gỗ, chì, và cục gôm nếu có. Sự hình thành của bản vị chiếc xe hơi cũng là sự kết hợp của nhiều cơ năng khác nhau của chiếc xe mà những cơ năng chính sẽ góp thành một bản vị xe hoàn hảo, an toàn cho người sử dụng.

Một bản vị muốn được tốt đẹp, phục vụ được lợi ích của mục đích kết hợp thì phải luôn luôn bảo trì, điều chỉnh theo thời gian. Dĩ nhiên có những bản vị theo thời gian, dù được bảo trì, vẫn phải tan vỡ bởi sự tồn tại của bản vị con người và vật thể có giới hạn của nó. Sinh-lão-bệnh-tử là chu kỳ của bản vị Con Người. Một vật thể cũng có chu kỳ riêng của chính nó mà chiếc xe là thí dụ điển hình.

Trong sinh hoạt của bản vị xã hội, mỗi cá nhân phải đóng đúng cơ năng của mình trong bộ máy hoạt động của xã hội bởi nếu đóng sai vị trí sẽ làm xã hội bất ổn. Bản vị tổ chức điều hành bộ máy quốc gia cũng vậy, cần phải có một hệ thống lựa chọn để người tham dự vào bản vị này đóng đúng vị trí cơ năng của mình và phù hợp với khả năng của mình thì bộ máy sinh hoạt của quốc gia đạt hiệu quả cao.

Sự thành công hay thất bại của các công ty bởi do người lãnh đạo biết lựa chọn người hay không biết lựa chọn người vào hệ thống điều hành công ty. Biết lựa chọn người và sắp đặt đúng chỗ, công ty sẽ thành công và lớn mạnh. Không biết lựa chọn và sắp đặt người sai chỗ, sự thất bại của công ty sẽ xảy ra sớm hay muộn.

Cơ Năng và Bản Vị là thuyết sinh hoạt của loài người từ tư tưởng Duy Dân của Lý Đông A. Hiểu để thấy được giá trị thực tế của tư tưởng này, dựa vào sinh hoạt đời sống người để tạo ra cuộc sống hài hòa, mọi người cùng tiến chứ không phải mạnh được yếu thua như sinh hoạt hiện giờ của xã hội hoặc của thế giới.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 6 năm 2025 (Việt lịch 4904)

Nguồn: https://nganlau.com/2025/08/24/co-nang-va-ban-vi/

 

 

 

Hỗ Tương Nguyên Nhân

 

Hỗ tương nguyên nhân là một trong những lý tắc căn bản của Duy Dân được Lý Đông A đưa ra trong 4 tiền đề và 5 nền tảng (Chìa Khóa Thắng Nghĩa) cũng như nguyên tắc đối lập thống nhất. Nếu ai tự hỏi vì sao Lý Đông A đưa ra hai lý tắc này và sẽ có người khởi tâm bác bỏ yếu tố nền tảng để chối bỏ sự hiện hữu và giá trị của Duy Dân hay sự đóng góp của Lý Đông A về lý luận từ triết học đến chính trị. Câu trả lời có thể tìm thấy qua tài liệu Sinh Mệnh Tâm Lý: Âm-Dương. Âm với Dương phải có hỗ tương thì mới có vạn vật. Trong Thái Âm có Thiếu Dương và Thái Dương có Thiếu Âm.

Mức độ hỗ tương tùy theo chủ đề, đối tượng, lãnh vực để có sự thống nhất qua đối lập. Hỗ tương là sự hợp tác cùng chiều: A và B cùng sản xuất xe điện khác vật liệu, hình thức nhưng có hỗ tương qua trao đổi kỹ thuật, kiến thức. Đối lập là sự hợp tác nghịch chiều: A và B có kế hoạch kinh tế khác nhau nhưng cùng mục tiêu giảm ô nhiễm và tiết kiệm năng lượng. Cả hai có thể cạnh tranh trên việc thực hiện có kết quả cao nhất nhưng không phá hoại lẫn nhau để thắng. Chúng ta đi vào đời sống hàng ngày để thấy tác dụng ra sao. 

Mỗi bản vị trong đời sống người hay vật chất đều có tác động hỗ tương nguyên nhân. Nói một cách đơn giản là mỗi con người hay vật thể được hình thành từ những thành tố bên ngoài hoặc bên trong vẫn dựa vào thành tố bên ngoài để được sống còn hay phát triển như là mục đích chung.

Hãy nhìn vào thân thể con người được hình thành từ những cơ năng (bộ phận) trong con người. Những cơ năng đó, tốt hay xấu, ảnh hưởng đến cuộc sống bản thân của con người. Ngay cả con người, tự bản thân, phải dựa vào tập thể để sống-còn-biến-hóa.

Mỗi cá nhân trong xã hội đóng vị trí, vai trò của cá nhân đó trong bộ máy xã hội. Vị trí đó giúp đỡ người khác, giúp đỡ bộ máy xã hội hoạt động mà mọi người cùng tiến hóa. Không một cá nhân nào, dù là tài giỏi thuộc dạng thiên tài, có thể làm được gì nếu không có bộ phận của xã hội giúp đỡ để đem cái tài giỏi đó vào đời sống thực tế.

Người nông dân đóng vị thế tạo ra nông sản để nuôi những người không có khả năng làm nông dân. Không có người sản xuất ra lúa, gạo, trái cây, rau cải thì thế giới này sẽ không có đủ thực phẩm nếu chỉ dựa vào thiên nhiên.

Ngược lại người nông dân phải dựa vào vị bác sĩ mỗi khi trở bệnh, dựa vào các kỹ sư nông nghiệp để gia tăng sản phẩm trồng trọt, dựa vào kỹ sư cơ khí để giảm bớt sức lao động nhưng vẫn đạt hiệu quả lao động cao.

Vai trò của mỗi cá nhân trong xã hội (nông dân, bác sĩ, kỹ sư, công nhân, thương gia...) đều quan trọng như nhau để đóng góp sinh hoạt đều hòa của một quốc gia, xã hội.

Nói về vật chất thì cũng có sự hỗ tương nguyên nhân. Thí dụ chiếc xe được hình thành từ nhiều cơ năng (bộ phận xe). Nhưng bản vị chiếc xe sẽ trở thành vô giá trị nếu không có nhiên liệu xăng hoặc điện để tác động vào bộ phận máy móc hầu vận chuyển chiếc xe từ chỗ này đến chỗ nọ. Người sử dụng xe phải dựa vào công ty sản xuất nhiên liệu để có thể sử dụng chiếc xe hiệu quả.

Quan hệ Nam-Nữ là quan hệ hỗ tương nguyên nhân với mục đích phát triển giống nòi. Cho nên cái ý nghĩ trọng nam khinh nữ hay trọng nữ khinh nam là đi ngược lại nguyên lý của hỗ tương nguyên nhân.

Quan hệ người dân và bộ máy điều hành quốc gia (chính quyền) là quan hệ hỗ tương nguyên nhân. Không có người dân thì sẽ không có bộ máy chính quyền hoặc có nhưng chỉ có danh chứ hoàn toàn không có giá trị gì của thực tế. Vì là quan hệ hỗ tương, cả hai phải hợp tác để tạo lợi ích chung cho toàn thể. Chính sách, luật lệ đưa ra người dân phải tuân thủ để tạo ra một xã hội hài hòa. Chính sách, luật lệ phải phục vụ quyền lợi của người dân chứ không phải phục vụ quyền lợi của kẻ nắm quyền điều hành. Sự phân chia giai cấp dưới chế độ cộng sản hay phân biệt Tả-Hữu, giàu-nghèo dưới chế độ tư bản đều đưa đến rối loạn, hủy diệt vì không thực hiện "hỗ tương nguyên nhân". Hỗ tương nguyên nhân không phải chỉ đứng một mình mà phải hiểu nó đi cùng với đối lập thống nhất.

Quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể là hỗ tương nguyên nhân. Khi cá nhân còn khỏe mạnh, đi làm đóng thuế để giúp những người không khỏe mạnh và khi cá nhân về già, không còn đủ sức để tạo kinh tế nuôi bản thân thì xã hội sẽ giúp đỡ cá nhân đó.

Vì cuộc sống kinh tế, cá nhân phải làm một công việc nào đó và nếu công việc đó gây ảnh hưởng môi sinh, môi trường sống của tập thể thì cá nhân đó bắt buộc tìm một giải pháp khác để giải quyết đời sống kinh tế của mình không hại đến xã hội. Đây là trường hợp quyền lợi cá nhân phải xét lại khi cái quyền lợi đó ảnh hưởng đến đời sống của tập thể. Cá nhân không vì đời sống kinh tế của mình mà thực hiện chuyện lừa gạt người khác.

Mỗi người đều tạo cho mình một nghề nghiệp để nuôi sống bản thân. Nghề nghiệp đó không thể nào là sự lừa gạt bởi bất cứ sự lừa gạt nào đều đi ngược lại nguyên lý sống của con người là hỗ tương nguyên nhân. Tất cả xuất phát từ nền tảng Nhiên (tự nhiên)-Nhân (tư tưởng)-Dân (xã hội). Điều hòa Âm Dương trong thiên nhiên phải được con người học hỏi và phổ biến trong xã hội (đối lập) để đóng góp (hỗ tương) với thiên nhiên thì nhân loại mới tồn tại. Nạn ô nhiễm môi sinh và khí hậu thay đổi là do con người không bảo vệ thiên nhiên.

Hỗ tương nguyên nhân được nhìn ở một góc nhìn khác là chúng ta luôn luôn học hỏi từ người khác; từ những người ác cho đến những người thiện; từ những người thiếu kiến thức trường sở đến những người có kiến thức trường sở; từ những người thông minh đến những người không thông minh; từ những người nhỏ tuổi đến những người lớn tuổi, ngang tuổi với chính mình. Những học hỏi đó, cộng với sự tu dưỡng ở bản thân, chúng ta sẽ tạo ra một cuộc sống hài hòa, cùng tiến cho mọi người.

Dĩ nhiên muốn làm được chuyện này, muốn thấu hiểu nguyên lý hỗ tương nguyên nhân cần có hệ thống giáo dục từ thuở nhỏ để trẻ thấm dần nguyên lý sống này và khi trưởng thành, trẻ sẽ có lối ứng xử tốt đẹp đối với người chung quanh và xã hội. Chiến tranh cũng có thể chấm dứt từ đấy. Nhưng ai sẽ là người mở đường? Lý Đông A để lại Duy Dân. Ai tu dưỡng để hiểu Duy Dân? Có cầm tài liệu Duy Dân mà thiếu tu dưỡng thì vô ích. Cũng như làm chính trị thì phải đi tu trước, nhưng đã đi tu thì không làm chính trị. Ai hiểu thì không cãi. Ai cãi thì không hiểu.

Không có nhà giáo (educator) thì ai hướng dẫn lớp sau khi trường học chỉ là nơi tranh chấp tiền bạc và quyền lực. Giáo dục dẫn đến chính trị. Chính trị có đảng hay không đảng? Có đảng thì tranh chấp quyền lực, chức vụ, phân biệt bạn, thù... Không đảng thì lấy gì nối kết, tập họp, tin tưởng lẫn nhau khi gặp nguy khốn?

Làm sao biết "đối lập" nhưng vẫn thống nhất mà không ly khai? Vì sao nói cách mạng Duy Dân xuyên suốt vì nó không phải chỉ 2 chiều (hỗ tương) mà là đa phương (lập thể) với quy luật gồm 3 yếu tố (Nhiên-Nhân-Dân, Phân công-phân lợi-phân mệnh...). Cuối cùng là "Tung Hợp". Hiểu Duy Dân thì hiểu Tung Hợp và ngược lại. Chu kỳ hoàn tất trên lý thuyết.

Hỗ Tương Nguyên Nhân là nguyên lý được nhắc đến trong tư tưởng Duy Dân của Lý Đông A. Hiểu và thực hiện được nó không phải dễ bởi tư tưởng Lý Đông A đã có gần 100 năm nay nhưng có ai hiểu rõ nguyên lý để áp dụng vào đời sống bản thân trước khi nói đến áp dụng vào xã hội.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 6 năm 2025 (Việt lịch 4904)

Nguồn: https://nganlau.com/2025/08/15/ho-tuong-nguyen-nhan/

 

Xã Hội Sinh Mệnh (P1)

Trong xã hội dân chủ, hiến pháp thường nhắc tới tự do, bình đẳng, nhân quyền, dân quyền ... vì mọi người sinh ra như nhau khi có cùng tinh t...