Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2025

Xã Hội Sinh Mệnh (P1)

Trong xã hội dân chủ, hiến pháp thường nhắc tới tự do, bình đẳng, nhân quyền, dân quyền ... vì mọi người sinh ra như nhau khi có cùng tinh thần, thể xác. Tuy nhiên, con người có bộ óc giống nhau nhưng suy nghĩ, học hỏi, hấp thụ kiến thức khác nhau cho dù được giáo dục như nhau. Thể xác cũng vậy, cùng là tim, phổi, ruột gan nhưng cơ thể mỗi người phát triển khác nhau: mập, ốm, cao thấp, mạnh yếu....

Do đó, hiến pháp có quy định nhân quyền, dân quyền, công bằng, giáo dục, cơ hội thăng tiến... nhưng xã hội vẫn có khác biệt khi mỗi cá nhân mang đức, nghiệp và khả năng biết (tri) khác nhau.  Cho nên các nhà lãnh đạo chính trị, cách mạng phải biết hiến pháp sẽ phải như thế nào để đối phó với sự khác biệt trong mỗi cá nhân, xã hội khi "dụng nhân như dụng mộc". Vậy phải biết "mộc" như thế nào hay nói cách khác "nhân" như thế nào khi biết mình, biết người?

Để thực hiện cuộc cách mạng cho VN thời đại 2000s, Lý Đông A (LĐA) đưa ra thuyết Duy Dân dựa trên những cá nhân có tu dưỡng để nắm vững sinh mệnh tâm lý, xây dựng xã hội qua Cơ Năng Hiến Pháp, kinh tế nhân bản. Lối nhìn của LĐA về xã hội được ghi nhận như "xã hội sinh mệnh", gọi là các tầng:

A. Đức tầng: Lý tưởng tầng, nhân cách tầng và sinh mệnh tầng.

B. Nghiệp tầng: Sáng ý nghiệp, quyết đoán nghiệp và thực hành nghiệp.

C. Tri tầng: Tiên tri tiên giác, hậu tri hậu giác, bất tri bất giác.

Vậy thì chúng ta có thể hiểu như thế nào?

A. Đức tầng

Quan niệm về phúc đức là nền tảng của đạo học Đông phương được truyền bá qua tử vi, dịch lý, phong thủy chịu chi phối bởi Âm-Dương (Lão Tử). "Âm" (đức) được hiểu như sự tương truyền qua nhiều đời (kiếp trước) và có ảnh hưởng đến hiện tại. "Dương" (kiếp này) được hiểu là những tính tốt do bản thân thực hiện và duy trì trong đời sống hiện tại (có hoặc không có) liên quan đến quá khứ. Những cá nhân có "đức" chưa hẳn là có "tài" (khả năng) để thực hiện ích lợi xã hội. Tuy nhiên xã hội có nhiều người đức độ thì sẽ bình yên, an hòa hơn là một xã hội thiếu đức. Đó là căn bản của đời sống (sinh mệnh) xã hội. LĐA đi xa hơn để vạch rõ hơn: 

Lý tưởng tầng: "Lý" đến từ suy nghĩ trong tư "tưởng". Lý tưởng là "giấc mơ" mà mỗi cá nhân theo đuổi suốt cuộc đời. Nhưng không phải ai cũng sống có lý tưởng. Tại sao? Theo tử vi thì lá số của bạn có sao tốt, có sự nghiệp, có danh, tài (làm quan hay chuyên gia…) nhưng không nói rõ thuộc dạng nào. Trong thực tế đời sống thì có thể thấy sự khác biệt khi đa số người thành công như vậy không phải ai cũng có cuộc sống lý tưởng.

Lý tưởng là có tầm nhìn cao thượng, xa hơn phạm vi gia đình, gia tộc. Lý tưởng có mục đích phục vụ tha nhân, xã hội, những kẻ kém may mắn hơn bình thường. Lý tưởng đòi hỏi hy sinh và đức độ cũng như khôn ngoan, sáng suốt. Nhưng không phải ai có lý tưởng sẽ thành công hay sẽ là người tốt. Người có lý tưởng mù quáng, thiếu sáng suốt, suy nghĩ sẽ không làm nên cơm cháo gì khi lý tưởng không thiết thực.

Cũng có thể là lý tưởng tốt đẹp nhưng cá nhân không đủ tu dưỡng, đức độ, tài năng để thực hiện. Trường hợp khác là có đức để đạt được ngôi vị cao cả khi thực hiện lý tưởng nhưng không đủ tài năng để chủ động (tự chủ) và thường bị kẻ khác lợi dụng, khuynh đảo. Cá nhân sống có lý tưởng có thể đến từ nghiệp (kiếp trước) hay tự phát do học hỏi, quan sát trong đời sống hiện tại.

Nhân cách tầng: Khi cá nhân ý thức mình là một cá thể độc lập với Thân và Tâm thì đó là "ngã" (cái tôi) xuất hiện. Từ đó mỗi cá nhân chọn cho mình một đặc tính (tư cách). Nếu cá nhân ý thức được giá trị "người" trong thiên nhiên so với các sinh vật khác và tôn trọng "người" thì đó là nhân cách (cách sống như con người). Nếu dựa vào sức mạnh, khôn ngoan, may mắn để lấn hiếp, lợi dụng kẻ khác thì đó là kẻ phá hoại xã hội.

Giáo dục (từ xã hội) có thể giúp thay đổi cá nhân nhưng giáo dục sai lầm lại làm tăng gia sức hủy hoại xã hội. Do đó, giáo dục đến từ sự quan sát, tự học hỏi sẽ xây dựng mỗi cá nhân khác nhau (đức, nghiệp). Quan sát là khởi điểm và chung điểm của giáo dục. Giáo dục lại là khởi điểm và chung điểm của chính trị. Chính trị là thiết kế và chấp hành nhân sinh: xây dựng nền giáo dục con người và xã hội. 

Vậy nhân cách của người lãnh đạo chính trị cho biết giáo dưỡng chế độ, xã hội sẽ như thế nào. Do đó đức đóng vai trò quan trọng đối với các nhà lãnh đạo vì hiếm có, khó thực hiện hơn tài vì người tài chỉ muốn phô trương, thực hiện cái "tài" bất kể lợi hại khác với đức phải suy nghĩ chính chắn. Khi con người không có (hay không tìm ra) lý tưởng sống thì giữ nhân cách là điều chính yếu để con người tham dự xã hội.

Sinh mệnh tầng: Cuối cùng của đức tầng là sinh mệnh, được coi như giao phó cho số mạng (sinh sao chịu vậy). Tuy không có lý tưởng nhưng mệnh chịu ảnh hưởng thời gian, không gian, tính di truyền, giáo dục, sở thích vẫn có thể đóng góp cho xã hội qua ảnh hưởng của Nghiệp tầng.

Xã Hội Sinh Mệnh (P2)

Trần Công Lân

Tháng 4 năm 2025 (Việt lịch 4904)

https://nganlau.com/2025/07/01/xa-hoi-sinh-menh-p1/

 

Xã Hội Sinh Mệnh (P2)

B. Nghiệp tầng

Nghiệp tầng là phạm trù liên quan đến nghiệp. Ý niệm về nghiệp (theo Phật học) là một ý niệm phức tạp. (1) Nghiệp là truyền kiếp, từ kiếp trước liên quan đến kiếp sau khi điều kiện chín mùi thì quả xảy ra không theo một lịch trình nhất định nào. (2) Nghiệp xảy ra vì con người "vô minh" (thập nhị nhân duyên) đưa đến hành động và ngũ quan (ngũ uẩn) tác động lôi cuốn con người tạo nghiệp. (3) Nghiệp quá khứ không sửa được. (4) Nghiệp hiện tại tiếp tục xảy ra, vậy nghiệp tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng đến cá nhân, xã hội như thế nào?

Sáng ý nghiệp: Những nhà phát minh là có mang nghiệp "sáng ý". Đây là những người có ý kiến đóng góp cho xã hội vì sáng kiến nảy ra trong tâm họ đến từ đâu? Vì sao "nó" xảy ra trong tâm người này mà không xảy ra với người khác? Khi sáng kiến đưa đến hành động tạo ra sản phẩm ích lợi cho xã hội.

Vì danh lợi con người thi đua sáng kiến bất kể tốt xấu. Tốt ít xấu nhiều. Xấu gây tai hại khiến xã hội chịu thiệt hại nhiều vì phải sửa chữa, ngăn chận cái xấu lan tràn tác hại. Cũng là những nhà phát minh nhưng có người phát minh sản phẩm tốt, ích lợi xã hội, kinh tế trong khi có người chỉ gặp rắc rối, kiện tụng, thiệt hại nhiều hơn do hậu quả của nghiệp. 

Quyết đoán nghiệp: Có những người sinh ra để thi hành những quyết định mà người khác không dám, không muốn hay không đủ khả năng. Đó là những giám đốc, quản lý công ty, cơ xưởng. Các nhà buôn, tiểu thương cũng thuộc hạng này khi quyết định theo đuổi các ngành thương mại cung cấp hàng, sản phẩm cho xã hội.

Có hạng người vì đam mê, có hạng người thích lợi dụng thời cơ để thủ lợi, làm ít ăn nhiều hơn là mục đích phục vụ nhu cầu xã hội. Cũng do ảnh hưởng của nghiệp, người có "quyết đoán nghiệp" sẽ gặp công việc thích hợp, hợp ý, thuận lợi nếu có đức. Ngược lại, cũng là vai trò phải quyết đoán nhưng toàn chuyện gai góc, nhức đầu, vất vả.

Thực hành nghiệp: Là hạng người "làm công": công nhân, tư chức, công chức hay chuyên môn trung cấp chỉ thực hiện những gì đã được vạch ra, huấn luyện, học tập... hoặc hạng người vì bất đắc dĩ (không đủ tài năng, khả năng để làm việc khác) nên chỉ làm việc bởi người khác sai khiến, điều động. Có người cũng là thầy, thợ nhưng suốt đời chỉ làm một nơi, một hãng. Có người khác thì năm chìm bảy nổi, chín cái long đong cho dù ngành nghề như nhau cũng chỉ vì nghiệp nặng nhẹ khác nhau.

Xã Hội Sinh Mệnh (P3)

Trần Công Lân

Tháng 4 năm 2025 (Việt lịch 4904)

Nguồn: https://nganlau.com/2025/07/01/xa-hoi-sinh-menh-p2/

 

 

Xã Hội Sinh Mệnh (P3)

 

C.  Tri tầng

Tri tầng chú trọng đến khả năng biết, thấy (qua sự hiểu biết, kiến thức) của mỗi cá nhân tuy rằng mỗi người đều có thị giác (mắt) để quan sát học hỏi nhưng Tâm có ghi nhận, giữ lâu dài và vận dụng cái biết vào cuộc sống hay không. Cũng do chịu ảnh hưởng của Đức và Nghiệp nên có người nhớ dai, học giỏi nhưng không thành tài hay giúp ích cho xã hội.

Tiên tri tiên giác (biết trước, thấy trước): Có hạng người do tu dưỡng đạt tới trình độ "biết trước, thấy trước" sự việc xảy ra do quan sát các sự kiện, dữ kiện liên hệ (thấy trước không phải bằng mắt mà bằng trí quan sát). Khả năng này liên quan tới Đức và Nghiệp chứ không do đi học ABC mà có.

Hậu tri hậu giác (biết sau, thấy sau): Có hạng người do học hỏi mà biết sau khi sự học hoàn tất (hậu tri) và từ đó đạt được cái thấy do hậu quả của sự học và biết (hậu giác). Đó là hạng người có thể huấn luyện và sử dụng lâu dài.

Bất tri bất giác (không biết, không thấy): Có hạng người tuy có huấn luyện nhưng vẫn không nắm lấy cái biết (bất tri) và cũng không thấy cái cần phải làm của mình (bất giác) vì tâm trí không tập trung hay không chấp nhận vì nhiều lý do. Đây không phải loại người mắc bệnh tâm trí mà chỉ là hạng bê bối, thờ ơ, mang tâm lý lợi dụng xã hội, tha nhân.

Cũng trong cùng tài liệu Sinh Mệnh Tâm Lý, LĐA nhắc đến

“Chủ quan thiên tính và tâm lý cơ cấu: Chủ quan thiên tính và tâm lý cơ cấu phối hợp với khách quan, thời gian và không gian kinh qua các phạm trù nhu yếu và khái niệm mà hình thành các tính nghiệp, tình nghiệp và ý nghiệp. Tính nghiệp là do tàng-trụ-tính, tàng- trụ-thức và nghiệp hành (karma) xã hội mà hình thành. Tình nghiệp và ý nghiệp cũng vậy, tức là những thiên tính hậu thiên (tập quán và xã hội nhân quả, duyên nghiệp)”.

a. Tính Nghiệp: Ca dao tục ngữ VN có câu "cha mẹ sinh con, trời sinh tính". Từ cá tính cho thấy Tâm của cá nhân đã suy nghĩ, học hỏi những gì để thực hiện trong đời sống bản thân. Theo năm tháng, hành động của Thân kết thành Mệnh. Đó là ý nghĩa của Tính-Tâm-Thân-Mệnh.

b. Tình Nghiệp: Con người có lý trí và tình cảm nhưng không phải ai cũng cân bằng được hoạt động của Lý và Tình. Đó cũng là lý do để tu dưỡng vì sự thiên lệch của Lý hay Tình đều đưa đến khủng hoảng trong đời sống con người. Con người rối loạn thì xã hội rối loạn. Đó là nguồn gốc của xã hội tâm lý và gia đình tâm lý.

c. Ý Nghiệp: Con người có đầu óc để suy nghĩ nhưng không phải ai cũng có ý chí cho dù có cùng học thức, kiến thức, giáo dục.... Vì sao đứa trẻ từ nhỏ có khuynh hướng ABC? Tại sao cùng sở thích, đam mê, học vấn... mà có trẻ thành công, thất bại cho dù cha mẹ, thầy cô có khuyến khích hay không? Tại sao trẻ trong hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm lại có quyết tâm, năng lực cao hơn đứa trẻ trong bình yên? Có kẻ nản lòng thối chí nửa đường hay thay đổi với điều kiện ABC trong khi kẻ khác vẫn duy trì ý chí trước sau như một? Làm sao tạo ý chí và chuyển tải ý chí từ người với người vẫn là điều bí mật mà chỉ có kẻ tu dưỡng thâm sâu mới hiểu (nếu trải qua: Nhân tướng, Ngã tướng, Pháp tướng, và Thọ tướng).

Kết

Như vậy tầng A, B, C là hàng ngang và sự phân chia theo các tầng là hàng dọc. Sinh mệnh tâm lý từ cá nhân (người) vào xã hội, mỗi hạng người là hàng dọc, xã hội là hàng ngang thăng tiến mọi người nhưng thay vì tự lực tiến lên đóng góp cho xã hội (tung hợp) thì con người quay ra chèn ép bóc lột lẫn nhau để thống trị xã hội.

Hiểu Sinh Mệnh Tâm Lý cũng như xã hội sinh mệnh là yếu tố căn bản để biết "phân công, phân lợi, phân mệnh". LĐA đưa ra "toại kỳ sở nhu, tận kỳ sở năng" để có "chính kỳ sở mệnh" vì phải có tu dưỡng để chuẩn bị cho bản thân (cá nhân) nếu muốn đóng góp cho đời sống xã hội (xã hội sinh mệnh) thì mệnh của cá nhân phải phù hợp với "mệnh" của xã hội.

Sinh mệnh cá nhân và xã hội đan (quyền) với nhau để thành cấu trúc Duy Dân. "Chính kỳ sở mệnh" cũng là điều kiện thanh lọc hàng ngũ của Duy Dân vì kẻ giả Duy Dân sẽ không vượt qua được giai đoạn tu dưỡng (toại kỳ sở nhu, tận kỳ sở năng) cho dù (giả sử) có vượt qua thì "chính kỳ sở mệnh" không phải ai muốn cũng được như ý.

"Tính-Tâm-Thân-Mệnh" cũng là một cách khác để nhìn người: khi "Tính" tình của một cá nhân cho biết "Tâm" của cá nhân đó. Tâm được phối hợp với "Thân" (tinh thần và vật chất là hỗ tương nguyên nhân) mà "Thân" thì đi liền với "Mệnh". Biết "Tính" thì có thể đoán "Mệnh". Đó cũng là lý do tài liệu Duy Dân được lưu truyền mà không (hay chưa) phát triển vì kẻ giả Duy Dân có rất nhiều nhưng không dẫn chứng được quá trình tu dưỡng để giải thích nét đặc sắc thuyết Duy Dân của LĐA.

Tư tưởng Duy Dân dành cho những ai có tu dưỡng để nắm (hiểu) xã hội sinh mệnh (Đức-Nghiệp-Tri) chứ không phải dùng để mưu đồ chính trị. Nói đến Duy Dân là nói đến cách mạng. Cách mạng đòi hỏi tu dưỡng. Hãy nói về quá trình tu dưỡng của bạn trước khi đi tìm (hay nói) Duy Dân.

Trần Công Lân

Tháng 4 năm 2025 (Việt lịch 4904)

Nguồn: https://nganlau.com/2025/07/01/xa-hoi-sinh-menh-p3/

 


Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2025

Cơ Năng và Bản Vị

Cơ năng và bản vị là thực tế đời sống của người và vật thể. Mỗi bản vị (con người, công ty, vật thể, bộ phận quản trị quốc gia) đều hình thành từ những cơ năng trong thiên nhiên hoặc trong xã hội.

Mỗi con người trong xã hội vừa là bản vị vừa là cơ năng tùy theo ở vị thế nào trong sinh hoạt của xã hội. Sự chào đời của một cá nhân, cá nhân đó là một bản vị (con người) được hình thành từ những cơ năng khác như tim, phổi, gan, óc, máu, bao tử, ruột v.v…. Những cơ năng trong thân thể Con Người hình thành bản vị cá nhân của con người đó. Dĩ nhiên những cơ năng trong thân thể con người, tự nó phải là bản vị riêng và hoàn hảo. Nếu bản vị của tim không hoàn hảo thì đứa trẻ sinh ra chưa chắc sẽ sống còn hoặc sống khỏe.

Hai cá nhân (Nam-Nữ) hợp thành bản vị gia đình. Bản vị gia đình có thành tố cơ năng: vợ, chồng, con cái (nếu cả hai quyết định có con). Nhiều gia đình hợp thành bản vị gia tộc, làng xóm, dân tộc, và quốc gia.

Cứ mỗi lần một bản vị trở thành một cơ năng để hình thành một bản vị mới, lớn hơn, với mục đích nâng cao cuộc sống về mặt tinh thần lẫn vật chất. Bản vị nào không đạt được mục đích của sự kết hợp thì sẽ vỡ tan theo thời gian mà sự đổ vỡ của gia đình, gia tộc, chế độ là thí dụ điển hình.

Về vật chất thì mọi sự hình thành của các vật chất đều từ sự hình thành của nhiều cơ năng để trở thành bản vị của chính nó. Thí dụ đơn giản là bản vị cây bút chì được hình thành từ những cơ năng thân gỗ, chì, và cục gôm nếu có. Sự hình thành của bản vị chiếc xe hơi cũng là sự kết hợp của nhiều cơ năng khác nhau của chiếc xe mà những cơ năng chính sẽ góp thành một bản vị xe hoàn hảo, an toàn cho người sử dụng.

Một bản vị muốn được tốt đẹp, phục vụ được lợi ích của mục đích kết hợp thì phải luôn luôn bảo trì, điều chỉnh theo thời gian. Dĩ nhiên có những bản vị theo thời gian, dù được bảo trì, vẫn phải tan vỡ bởi sự tồn tại của bản vị con người và vật thể có giới hạn của nó. Sinh-lão-bệnh-tử là chu kỳ của bản vị Con Người. Một vật thể cũng có chu kỳ riêng của chính nó mà chiếc xe là thí dụ điển hình.

Trong sinh hoạt của bản vị xã hội, mỗi cá nhân phải đóng đúng cơ năng của mình trong bộ máy hoạt động của xã hội bởi nếu đóng sai vị trí sẽ làm xã hội bất ổn. Bản vị tổ chức điều hành bộ máy quốc gia cũng vậy, cần phải có một hệ thống lựa chọn để người tham dự vào bản vị này đóng đúng vị trí cơ năng của mình và phù hợp với khả năng của mình thì bộ máy sinh hoạt của quốc gia đạt hiệu quả cao.

Sự thành công hay thất bại của các công ty bởi do người lãnh đạo biết lựa chọn người hay không biết lựa chọn người vào hệ thống điều hành công ty. Biết lựa chọn người và sắp đặt đúng chỗ, công ty sẽ thành công và lớn mạnh. Không biết lựa chọn và sắp đặt người sai chỗ, sự thất bại của công ty sẽ xảy ra sớm hay muộn.

Cơ Năng và Bản Vị là thuyết sinh hoạt của loài người từ tư tưởng Duy Dân của Lý Đông A. Hiểu để thấy được giá trị thực tế của tư tưởng này, dựa vào sinh hoạt đời sống người để tạo ra cuộc sống hài hòa, mọi người cùng tiến chứ không phải mạnh được yếu thua như sinh hoạt hiện giờ của xã hội hoặc của thế giới.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 6 năm 2025 (Việt lịch 4904)

Nguồn: https://nganlau.com/2025/08/24/co-nang-va-ban-vi/

 

 

 

Hỗ Tương Nguyên Nhân

 

Hỗ tương nguyên nhân là một trong những lý tắc căn bản của Duy Dân được Lý Đông A đưa ra trong 4 tiền đề và 5 nền tảng (Chìa Khóa Thắng Nghĩa) cũng như nguyên tắc đối lập thống nhất. Nếu ai tự hỏi vì sao Lý Đông A đưa ra hai lý tắc này và sẽ có người khởi tâm bác bỏ yếu tố nền tảng để chối bỏ sự hiện hữu và giá trị của Duy Dân hay sự đóng góp của Lý Đông A về lý luận từ triết học đến chính trị. Câu trả lời có thể tìm thấy qua tài liệu Sinh Mệnh Tâm Lý: Âm-Dương. Âm với Dương phải có hỗ tương thì mới có vạn vật. Trong Thái Âm có Thiếu Dương và Thái Dương có Thiếu Âm.

Mức độ hỗ tương tùy theo chủ đề, đối tượng, lãnh vực để có sự thống nhất qua đối lập. Hỗ tương là sự hợp tác cùng chiều: A và B cùng sản xuất xe điện khác vật liệu, hình thức nhưng có hỗ tương qua trao đổi kỹ thuật, kiến thức. Đối lập là sự hợp tác nghịch chiều: A và B có kế hoạch kinh tế khác nhau nhưng cùng mục tiêu giảm ô nhiễm và tiết kiệm năng lượng. Cả hai có thể cạnh tranh trên việc thực hiện có kết quả cao nhất nhưng không phá hoại lẫn nhau để thắng. Chúng ta đi vào đời sống hàng ngày để thấy tác dụng ra sao. 

Mỗi bản vị trong đời sống người hay vật chất đều có tác động hỗ tương nguyên nhân. Nói một cách đơn giản là mỗi con người hay vật thể được hình thành từ những thành tố bên ngoài hoặc bên trong vẫn dựa vào thành tố bên ngoài để được sống còn hay phát triển như là mục đích chung.

Hãy nhìn vào thân thể con người được hình thành từ những cơ năng (bộ phận) trong con người. Những cơ năng đó, tốt hay xấu, ảnh hưởng đến cuộc sống bản thân của con người. Ngay cả con người, tự bản thân, phải dựa vào tập thể để sống-còn-biến-hóa.

Mỗi cá nhân trong xã hội đóng vị trí, vai trò của cá nhân đó trong bộ máy xã hội. Vị trí đó giúp đỡ người khác, giúp đỡ bộ máy xã hội hoạt động mà mọi người cùng tiến hóa. Không một cá nhân nào, dù là tài giỏi thuộc dạng thiên tài, có thể làm được gì nếu không có bộ phận của xã hội giúp đỡ để đem cái tài giỏi đó vào đời sống thực tế.

Người nông dân đóng vị thế tạo ra nông sản để nuôi những người không có khả năng làm nông dân. Không có người sản xuất ra lúa, gạo, trái cây, rau cải thì thế giới này sẽ không có đủ thực phẩm nếu chỉ dựa vào thiên nhiên.

Ngược lại người nông dân phải dựa vào vị bác sĩ mỗi khi trở bệnh, dựa vào các kỹ sư nông nghiệp để gia tăng sản phẩm trồng trọt, dựa vào kỹ sư cơ khí để giảm bớt sức lao động nhưng vẫn đạt hiệu quả lao động cao.

Vai trò của mỗi cá nhân trong xã hội (nông dân, bác sĩ, kỹ sư, công nhân, thương gia...) đều quan trọng như nhau để đóng góp sinh hoạt đều hòa của một quốc gia, xã hội.

Nói về vật chất thì cũng có sự hỗ tương nguyên nhân. Thí dụ chiếc xe được hình thành từ nhiều cơ năng (bộ phận xe). Nhưng bản vị chiếc xe sẽ trở thành vô giá trị nếu không có nhiên liệu xăng hoặc điện để tác động vào bộ phận máy móc hầu vận chuyển chiếc xe từ chỗ này đến chỗ nọ. Người sử dụng xe phải dựa vào công ty sản xuất nhiên liệu để có thể sử dụng chiếc xe hiệu quả.

Quan hệ Nam-Nữ là quan hệ hỗ tương nguyên nhân với mục đích phát triển giống nòi. Cho nên cái ý nghĩ trọng nam khinh nữ hay trọng nữ khinh nam là đi ngược lại nguyên lý của hỗ tương nguyên nhân.

Quan hệ người dân và bộ máy điều hành quốc gia (chính quyền) là quan hệ hỗ tương nguyên nhân. Không có người dân thì sẽ không có bộ máy chính quyền hoặc có nhưng chỉ có danh chứ hoàn toàn không có giá trị gì của thực tế. Vì là quan hệ hỗ tương, cả hai phải hợp tác để tạo lợi ích chung cho toàn thể. Chính sách, luật lệ đưa ra người dân phải tuân thủ để tạo ra một xã hội hài hòa. Chính sách, luật lệ phải phục vụ quyền lợi của người dân chứ không phải phục vụ quyền lợi của kẻ nắm quyền điều hành. Sự phân chia giai cấp dưới chế độ cộng sản hay phân biệt Tả-Hữu, giàu-nghèo dưới chế độ tư bản đều đưa đến rối loạn, hủy diệt vì không thực hiện "hỗ tương nguyên nhân". Hỗ tương nguyên nhân không phải chỉ đứng một mình mà phải hiểu nó đi cùng với đối lập thống nhất.

Quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể là hỗ tương nguyên nhân. Khi cá nhân còn khỏe mạnh, đi làm đóng thuế để giúp những người không khỏe mạnh và khi cá nhân về già, không còn đủ sức để tạo kinh tế nuôi bản thân thì xã hội sẽ giúp đỡ cá nhân đó.

Vì cuộc sống kinh tế, cá nhân phải làm một công việc nào đó và nếu công việc đó gây ảnh hưởng môi sinh, môi trường sống của tập thể thì cá nhân đó bắt buộc tìm một giải pháp khác để giải quyết đời sống kinh tế của mình không hại đến xã hội. Đây là trường hợp quyền lợi cá nhân phải xét lại khi cái quyền lợi đó ảnh hưởng đến đời sống của tập thể. Cá nhân không vì đời sống kinh tế của mình mà thực hiện chuyện lừa gạt người khác.

Mỗi người đều tạo cho mình một nghề nghiệp để nuôi sống bản thân. Nghề nghiệp đó không thể nào là sự lừa gạt bởi bất cứ sự lừa gạt nào đều đi ngược lại nguyên lý sống của con người là hỗ tương nguyên nhân. Tất cả xuất phát từ nền tảng Nhiên (tự nhiên)-Nhân (tư tưởng)-Dân (xã hội). Điều hòa Âm Dương trong thiên nhiên phải được con người học hỏi và phổ biến trong xã hội (đối lập) để đóng góp (hỗ tương) với thiên nhiên thì nhân loại mới tồn tại. Nạn ô nhiễm môi sinh và khí hậu thay đổi là do con người không bảo vệ thiên nhiên.

Hỗ tương nguyên nhân được nhìn ở một góc nhìn khác là chúng ta luôn luôn học hỏi từ người khác; từ những người ác cho đến những người thiện; từ những người thiếu kiến thức trường sở đến những người có kiến thức trường sở; từ những người thông minh đến những người không thông minh; từ những người nhỏ tuổi đến những người lớn tuổi, ngang tuổi với chính mình. Những học hỏi đó, cộng với sự tu dưỡng ở bản thân, chúng ta sẽ tạo ra một cuộc sống hài hòa, cùng tiến cho mọi người.

Dĩ nhiên muốn làm được chuyện này, muốn thấu hiểu nguyên lý hỗ tương nguyên nhân cần có hệ thống giáo dục từ thuở nhỏ để trẻ thấm dần nguyên lý sống này và khi trưởng thành, trẻ sẽ có lối ứng xử tốt đẹp đối với người chung quanh và xã hội. Chiến tranh cũng có thể chấm dứt từ đấy. Nhưng ai sẽ là người mở đường? Lý Đông A để lại Duy Dân. Ai tu dưỡng để hiểu Duy Dân? Có cầm tài liệu Duy Dân mà thiếu tu dưỡng thì vô ích. Cũng như làm chính trị thì phải đi tu trước, nhưng đã đi tu thì không làm chính trị. Ai hiểu thì không cãi. Ai cãi thì không hiểu.

Không có nhà giáo (educator) thì ai hướng dẫn lớp sau khi trường học chỉ là nơi tranh chấp tiền bạc và quyền lực. Giáo dục dẫn đến chính trị. Chính trị có đảng hay không đảng? Có đảng thì tranh chấp quyền lực, chức vụ, phân biệt bạn, thù... Không đảng thì lấy gì nối kết, tập họp, tin tưởng lẫn nhau khi gặp nguy khốn?

Làm sao biết "đối lập" nhưng vẫn thống nhất mà không ly khai? Vì sao nói cách mạng Duy Dân xuyên suốt vì nó không phải chỉ 2 chiều (hỗ tương) mà là đa phương (lập thể) với quy luật gồm 3 yếu tố (Nhiên-Nhân-Dân, Phân công-phân lợi-phân mệnh...). Cuối cùng là "Tung Hợp". Hiểu Duy Dân thì hiểu Tung Hợp và ngược lại. Chu kỳ hoàn tất trên lý thuyết.

Hỗ Tương Nguyên Nhân là nguyên lý được nhắc đến trong tư tưởng Duy Dân của Lý Đông A. Hiểu và thực hiện được nó không phải dễ bởi tư tưởng Lý Đông A đã có gần 100 năm nay nhưng có ai hiểu rõ nguyên lý để áp dụng vào đời sống bản thân trước khi nói đến áp dụng vào xã hội.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 6 năm 2025 (Việt lịch 4904)

Nguồn: https://nganlau.com/2025/08/15/ho-tuong-nguyen-nhan/

 

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2025

Duy Dân

 

Khi nói đến hai chữ Duy Dân thì những người đã từng quan tâm đến nền dân chủ của đất nước chắc sẽ biết đó là tư tưởng Duy Dân. Nhưng tư tưởng Duy Dân là gì?

Duy Dân là hệ thống những nguyên lý (lý tắc) sinh hoạt của Con Người (tu dưỡng, sinh mệnh tâm lý), xã hội (giáo dưỡng dân tộc) và cơ cấu chính quyền (giáo dưỡng chế độ) của một quốc gia (dân tộc). Nếu các quốc gia cùng tham dự trên một căn bản cương thường (Duy Nhân cương thường) thì thế giới mới có hòa bình, bình đẳng vì dựa trên cùng căn bản giáo dục con người, xã hội và cơ cấu chính trị.

Duy Dân đưa ra các nguyên tắc căn bản và mở (open) để thảo luận và phát triển theo nhu cầu thời đại dựa trên các tiền đề nền tảng: Căn bản Nghĩa: Nhiên-Nhân-Dân (tự nhiên, con người, xã hội); Căn bản Học: triết học-khoa học-sử học. Căn bản luận: Bản thể luận, nhận thức luận, phương pháp luận.

Duy Dân dựa vào kinh nghiệm sinh hoạt quá khứ của nhân loại Đông Tây để cải tiến và tránh sai lầm qua giáo dục để ổn định đời sống cá nhân, xã hội.

Nó là những nguyên lý sinh hoạt của Con Người, xã hội và dựa vào nguyên lý đó để xây dựng lên một cơ cấu chính quyền được gọi là Cơ Năng Hiến Pháp.

Con Người từ xa xưa cho đến nay, không cần biết thuộc giống dân nào, sống ở đâu, đều có nhu cầu giống nhau: Nhu cầu nhu yếu, nhu cầu xã hội, nhu cầu tinh thần.

Nhu cầu nhu yếu là cái ăn, mặc, an ninh, phát triển giống nòi, tự do. Nhu cầu xã hội là Con Người không thể nào sống mà không có xã hội. Xã hội là nơi để bảo đảm sự sống, sự an bình cho Con Người; là nơi để mọi người tương tác cùng nhau tiến hóa qua nguyên lý "hỗ tương nguyên nhân" và "đối lập thống nhất" chứ không phải là hình thức mạnh được yếu thua của thời nguyên thủy loài người. Khi nhu cầu nhu yếu và xã hội được bảo đảm thì Con Người cần nhu cầu tinh thần để tạo ra những nền văn hóa nhân bản hầu tạo ra những thanh nhàn trong cuộc sống và đóng góp tích cực vào đời sống của xã hội.

Cá nhân luôn luôn tác động vào xã hội và ngược lại xã hội tác động vào cá nhân. Cá nhân xấu, nhiều cá nhân xấu sẽ tạo ra một xã hội xấu. Một xã hội tốt sẽ có chương trình giáo dục tốt để tạo ra những Con Người có nền tảng đạo đức nhằm cân bằng quyền lợi cá nhân với quyền lợi của xã hội.

Nguyên lý sinh hoạt của con người là Ỷ Tha (nhờ vào), Tự Kỷ (tự xét lại), và Động Tha (tác động bên ngoài). Bạn sinh ra nhờ bào thai người mẹ, nhờ những vị y tá, bác sĩ đỡ bạn khi bạn chào đời. Khi chào đời, bạn vẫn nhờ người mẹ, xã hội cung cấp nhu cầu nhu yếu cho bản thân bạn. Khi bạn lớn lên, bạn xét lại những sự kiện chung quanh bạn để bạn có lối ứng xử người, nhân bản, hướng thiện (hoặc bạn sẽ làm ngược lại những điều trên). Từ hình ảnh của bản thân bạn (xấu hay tốt), người khác dựa vào để học hỏi. Bạn là người xấu thì sẽ lôi kéo những người xấu như bạn. Những người tốt nhìn hình ảnh xấu của bạn, họ sẽ không làm theo bởi sự Tự Kỷ của họ có gốc của Nhân. Đây là vòng tròn của nguyên lý sinh hoạt của người.

Nguyên lý sinh hoạt của con người, xã hội là cơ năng và bản vị. Cá nhân bạn là một bản vị nhưng khi bạn gia nhập vào xã hội thì bạn trở thành cơ năng của xã hội. Ngay cả bản vị (thân thể bạn) được hình thành từ những cơ năng (tim, phổi, óc, máu, gan, v.v…). Những cơ năng này đóng vị trí độc lập nhưng cần nhau để sống còn. Tim ngưng đập thì toàn bộ những cơ năng khác bị ảnh hưởng và bản vị (thân thể bạn) của chính bạn sẽ chết.

Dựa vào các nguyên lý trên mà Cơ Năng Hiến Pháp ra đời để điều hành hoạt động của xã hội. Mỗi bộ phận trong cơ cấu chính quyền cần nhau và mỗi bộ phận phải đóng góp toàn khả năng cho cái nhiệm vụ mình đảm trách để những bộ phận khác không bị ảnh hưởng. Không phân quyền, không tập quyền mà là đan quyền (đan nhau và cần nhau để tồn tại). Người dân trực tiếp tham dự chính trị qua các cơ cấu đan quyền của Cơ Năng Hiến Pháp. Quyết định cuối cùng là ở tập thể nhân dân chứ không do đại diện dân cử.

Cơ Năng Hiến Pháp phải dựa vào nền tảng Nhân Bản Cương Thường (Duy Nhân Cương Thường) để điều hành quốc gia. Nhân Bản Cương Thường là những nhu cầu cần thiết của Con Người mà những người nắm vị thế lãnh đạo trong Cơ Năng Hiến Pháp dựa vào đó để làm nền tảng sinh hoạt, không vi phạm nền tảng đó.

Cơ Năng Hiến Pháp đặt ra những tiêu chuẩn tuổi tác, khả năng, thời gian phục vụ để tránh sự lão hóa, lạm quyền, chuyên quyền của giới chức điều hành chính quyền. Người dân sẽ đốc thúc và kiểm soát hệ thống chính quyền nhằm mục đích phục vụ đời sống của quốc dân. Người dân có một hệ thống để điều chỉnh những vụ án xử sai trái của tòa án tối cao. Con Người luôn luôn có những sai lầm và quyết định của tòa án tối cao cũng có thể phạm sai lầm, và nếu xảy ra thì người dân có quyền điều chỉnh sai lầm đó qua một cơ cấu Phê Phán Công Đường.

Hiến Pháp của quốc gia phải 10 năm tiểu điều chỉnh và 30 năm đại điều chỉnh. Với sự tiến bộ của thời đại, Hiến Pháp của một quốc gia cũng cần phải thay đổi theo sự tiến bộ của xã hội. Đây chính là Hiến Pháp sống đúng nghĩa.

Duy Dân hiểu mục đích chính trị là thiết kế và chấp hành nhân (dân) sinh chứ không phải chính trị hiện tại của thế giới là tranh giành quyền lãnh đạo từ các đảng phái chính trị. Nếu nói theo cô Phạm Đoan Trang là Chính Trị Bình Dân. Bình dân là đơn giản thì đa số dân mới tham dự. Sự phức tạp chỉ là cách gian lận của tầng lớp trí thức

Duy Dân là sống thực, sống thiện, sống đơn giản, sống đúng, sống biết. Thời đại hôm nay nhiều người sống dựa vào vật chất. Dĩ nhiên chúng ta không thể nào sống mà không có vật chất. Vấn đề là chúng ta đặt cái vật chất đó ở vị thế nào? Kinh tế thấp mà đòi hỏi phải có cái này, cái kia vì ngoài kia nhiều người có thì đó là cuộc sống đua đòi của vật chất. Tư bản theo đuổi cá nhân chủ nghĩa, chủ quan. Cộng sản đặt nặng xã hội, khách quan. Đó là bất công xã hội vì lý luận không thống nhất.

Duy Dân chủ trương một nền kinh tế tự do, tư bản nhân bản chứ không phải nền kinh tế tư bản hoang dã đặt quyền lợi công ty lên trên quyền lợi của xã hội, của môi trường. Trái đất có tài nguyên giới hạn. Cá nhân phải ý thức nhu cầu bản thân, gia đình thì mới tránh tranh chấp, xung đột vì quyền lợi.

Duy Dân quan niệm giáo dục là khởi điểm và chung điểm của chính trị. Cho nên phải có một nền giáo dục nhân bản bởi chỉ có những con người nhân bản mới có thể thiết kế và chấp hành nhân sinh. Nền giáo dục đó đào tạo cho mỗi Con Người thấy được trách nhiệm, bổn phận đối với bản thân, gia đình và xã hội. Nền giáo dục đó tạo điều kiện cho mỗi cá nhân tập được tinh thần Dân Chủ trên nền tảng Nhân Chủ.

Duy Dân phải bắt đầu từ chính bản thân của mỗi người. Phải có sự tu dưỡng cao để hướng thượng, làm tròn nhiệm vụ của một công dân, phân công một cách hợp lý, và phân lợi một cách công bằng. Đây là nền tảng căn bản của Duy Dân.

Mỗi cá nhân phải đạt sự tu dưỡng từ thấp đến cao. Thấp nhất là sống thiện, sống thật, làm tròn bổn phận của một công dân tuân thủ pháp luật, và tham gia vào sinh hoạt chính trị của quốc gia nếu có khả năng và ý chí phục vụ. Cao nhất là ở vị thế lãnh đạo cần phải có nền tảng đạo đức của một Con Người, không có nền tảng đó thì là nguy hiểm cho xã hội. Ở vị thế lãnh đạo cao phải thấu hiểu sự liên hệ của Triết Học, Sử Học, và Khoa Học để có những chính sách tổng thể, đem lại hiệu quả cao, phù hợp với đời sống thực tế của người dân.

Duy Dân hiểu rõ vị trí của mình trong xã hội để làm tròn vị trí đó. Hiểu sai vị trí sẽ tạo ra hỗn loạn của xã hội. Người làm kinh tế, dù giỏi cách mấy, không có khả năng lãnh đạo chính quyền bởi lãnh đạo chính quyền đòi hỏi nền tảng đạo đức, kinh nghiệm quản trị bộ phận chính quyền, và hiểu phục vụ người dân hoàn toàn khác với phục vụ công ty để tạo lợi nhuận.

Đây là những sơ đẳng về Duy Dân. Duy Dân rất thực tế bởi dựa vào nguyên lý sinh hoạt của Con Người và nguyên lý đó có từ xưa cho đến nay, chỉ vì con người thiếu lý luận (biện chứng) để tìm ra sự thực. Chủ đề Duy Dân áp dụng vào trong thực tế đời sống được trình bày trên trang mạng nganlau.com.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 2 năm 2025 (Việt lịch 4904)

Nguồn: https://nganlau.com/2025/05/15/duy-dan/

 

Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2025

Đảng Cách Mạng

Trong quá khứ chúng ta nghe nhiều về các đảng nhưng tất cả các đảng có bao giờ tự hỏi: đảng mình là đảng chính trị hay là đảng cách mạng? Bài viết này sẽ tập trung vào đảng cách mạng. Bài nói về đảng chính trị sẽ trình bày trong tuần tới.

Mục đích của cách mạng là thay đổi toàn diện và triệt để; nhưng không vì mục đích đó để xem thường mạng sống của Con Người, cho dù đó là mạng sống của đối thủ của mình.

Các cuộc cách mạng trên thế giới từ Ai Cập đến Tunisia kết quả ra sao? Hai đất nước này vẫn nằm ở vị trí “độc tài” dưới nhãn hiệu dân chủ. Tại sao thế? Câu trả lời có lẽ là cuộc cách mạng ở hai nước này không khởi đầu từ cái gốc mà chỉ bộc phát ở cái ngọn cho nên cuối cùng trở lại nền độc tài mới.

Để có một đảng cách mạng trước tiên phải có con người làm được cách mạng bản thân. Cuộc cách mạng bản thân để tự chính mình rèn luyện mình, kiềm hãm những cái Thâm-Sân-Si bởi ba cái này tạo ra hỗn loạn xã hội. Nói đơn giản khởi đầu của đảng cách mạng phải bắt đầu từ chính bản thân để chính mình kiện toàn tu dưỡng bản thân -- hầu tạo ra một nền tảng căn bản của đạo đức (lối ứng xử của Người) làm người.

Khi có nhiều con người có tu dưỡng, ngồi lại để thảo luận, tìm ra một tư tưởng làm nền tảng sinh hoạt của bản thân, của đảng cách mạng. Tư tưởng đó phải đặt Con Người làm gốc, dựa vào tương quan của Con Người để triển khai tư tưởng vào trong thực tế.

Những con người có du dưỡng đem những thảo luận về tư tưởng để tương tác với nhau hầu đánh giá thực-giả, khả năng, ý chí, cách làm việc -- để từ đó sắp xếp công việc cho phù hợp. Đây là tiến trình thử thách với nhau để đánh giá với nhau, tìm hiểu nhau, và xác định cái tư tưởng lựa chọn đó đúng hay sai, cần phải điều chỉnh ra sao.

Những con người có tu dưỡng tự chính bản thân phải lo được đời sống cho mình và gia đình. Nếu có khả năng làm ăn thương mại thì tạo ra công ty để giúp những cá nhân khác, giúp những người hàng xóm có công ăn việc làm. Đây là điểm chính của một đảng cách mạng. Không giải quyết được chuyện mưu sinh cho bản thân, cho những người đồng hành, cho những người hàng xóm gần gũi với mình thì đừng nói đến chuyện cách mạng.

Đảng cách mạng phải có một sơ đồ của một hệ thống chính quyền nhằm kiểm soát lẫn nhau. Nói tam quyền phân lập thì phải hình dung cái tam quyền phân lập đó ra sao, cái lổ hổng của tam quyền phân lập ra sao để kiện toàn nếu chọn tam quyền phân lập. Phải đặt câu hỏi, nếu tam quyền phân lập hợp tác để trở thành tam độc tài thì người dân dựa vào đâu để giải quyết chuyện đó? Nói chung dùng từ tam quyền phân lập không đủ để thuyết phục người khác khi mà không có một khung sườn để giải quyết vấn đề người xấu vào trong cơ chế tam quyền phân lập, và chính những người xấu hợp tác để trở thành một “độc tài” dưới danh nghĩa tam quyền phân lập.

Đảng cách mạng phải có một sơ đồ với hệ thống chính quyền ra sao, trách nhiệm của mỗi cơ năng như thế nào, thời gian phục vụ ra sao, người dân có cơ năng nào để xét lại những sai lầm của cơ cấu chính quyền đưa ra.

Đảng cách mạng nhìn vấn đề kinh tế ra sao? Một nền kinh tế tư bản hoang dã hay một nền kinh tế tư bản nhân bản? Một nền kinh tế xem thường thiên nhiên hay một nền kinh tế bảo quản thiên nhiên? Một nền kinh tế các công ty có trách nhiệm với sản phẩm trở thành phế thải hay một nền kinh tế cho các công ty tạo ra phế thải và xã hội phải gánh hậu quả của vật phế thải sau một thời gian sử dụng? Một nền kinh tế biết đủ hay vô đáy để tiếp tục thu vét từ xã hội cho cái giàu của chính bản thân?

Đảng cách mạng nhìn vấn đề giáo dục ra sao? Mục đích của giáo dục là gì?

Đảng cách mạng suy nghĩ gì về chuyện Tiền và Nhân sự? Có phương cách nào để đào tạo cán bộ trở thành những con người cách mạng luôn luôn quan tâm đến sự tu dưỡng bản thân? Làm sao tạo ra tiền và tìm người có khả năng? Có tiền và có người thì sẽ làm gì? Chương trình ngắn hạn, dài hạn ra sao? Có tiền nhưng biết sử dụng tiền cho hợp lý, bảo quản tiền bạc không bị lạm dụng hay biển thủ? Có người nhưng biết sử dụng người cho đúng khả năng, đúng công việc, và tôn trọng người hợp tác?

Đảng cách mạng thấy được sự tương quan giữa Triết Học, Sử Học, và Khoa Học? Đảng cách mạng làm việc trên tinh thần khoa học hay làm việc trên tinh thần nước đến chân mới nhảy?

Đảng cách mạng không cần phải phô trương và những cán bộ cách mạng sống, hòa hợp với đáy tầng, giúp đỡ đáy tầng chuyện cơ bản nhất là kinh tế, là giáo dục (hiểu ở một nghĩa rộng lớn chứ không phải là trường sở) mà không ai biết đó là cán bộ cách mạng.

Đây là bước chuẩn bị lâu dài, có thể 30 năm trước khi chính thức tuyên bố thành lập đảng cách mạng với cương lĩnh và chương trình hành động. Bước chuẩn bị này để xây dựng lực lượng gốc, xây dựng nền tảng trong công việc chuẩn bị cuộc cách mạng toàn diện và triệt để; cũng như xây dựng nền tảng để xây dựng lại hệ thống xã hội băng hoại, thất nhân thành một xã hội có trách nhiệm, có nhân tâm, nhân đức, nhân đạo, nhân tri, nhân trí, nhân lực, và nhân chủ.

Cách mạng không phải chỉ là trình bày qua vài trang giấy, cuốn sách, mớ nguyên lý hỗn độn, mơ hồ, ảo tưởng vì nếu cách mạng chỉ xảy ra đúng tại A mà không thành ở B thì phải xét lại. Cách mạng là sản phẩm của con người. Con người có suy nghĩ (tư tưởng) để biết đúng, sai. Con người cũng sống nhờ vật chất và hoạt động để tiến hóa. Vậy con người cách mạng phải có tu dưỡng qua suy nghĩ, lý luận. Cao điểm của lý luận là triết học.

Triết học Duy Vật thất bại vì gian dối, một chiều, che giấu khuyết điểm, tranh thắng bằng cách tiêu diệt đối lập. Cách mạng là thay đổi. Thay đổi như thế nào? Đi về đâu cần phải có lý luận, thử thách, ứng biến với hoàn cảnh; không phải độc tài, độc đảng (đóng) mà qua nguyên tắc (mở) để mọi người tham dự, góp ý thì đó là dân chủ. Và nếu là trách nhiệm chung để thay đổi tốt hơn thì không thể tiêu diệt lẫn nhau để sống. Cách mạng phải phân biệt Chính và Trị. Cách mạng cũng là kiến thiết (kinh tế). Khi thế giới chỉ có một môi trường sống thì tranh giành đất đai (lãnh thổ) hay tài nguyên vốn giới hạn không phải là chính sách kinh tế đúng đắn của một lý thuyết cách mạng.

Vài ý tưởng gợi ý cho một đảng cách mạng ở tương lai xây dựng tại Việt Nam, do chính những người sống tại Việt Nam quan tâm đến vận mệnh của chính mình, gia đình mình, xã hội mình, đất nước mình, dân tộc mình. Người Việt ở ngoài Việt Nam chỉ đóng vai trò phụ, giúp đỡ ý kiến và vận động chính quyền sở tại nhằm đáp ứng nhu cầu mà đảng cách mạng trong nước cần để đẩy cuộc cách mạng đi đến thành công.

“Đảng cách mạng dùng phương tiện đấu tranh bí mật và từ dưới quần chúng đi lên…. Đảng cách mạng chủ đích lấy quần chúng, giác ngộ quần chúng cùng đứng lên sửa đổi và xây dựng xã hội với mình” (Lý Đông A)

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 10 năm 2024 (Việt lịch 4903)

Nguồn: https://nganlau.com/2025/03/07/dang-cach-mang/

 

Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2025

Dân Chủ Là Gì?

Hình như người Việt chưa bao giờ tìm hiểu về sự thật của Dân Chủ là gì. Mọi người cứ nghĩ rằng dân chủ là chấp nhận đa đảng, người dân bỏ phiếu, đa số thắng thiểu số. Tất cả những vấn đề trên đúng nhưng chỉ là ngọn. Nếu chỉ nhắm vào ngọn mà không nhìn vào gốc thì nền “dân chủ” đó rất là nguy hiểm hoặc nền độc tài mới dưới cây dù “dân chủ”.

Có đa đảng chưa chắc đã dân chủ. Người độc tài sẽ dựng ra nhiều đảng khác nhau để gọi là đa đảng thì phải chăng đó cũng là dân chủ?

Người dân đi bỏ phiếu thì phải chăng ở những nước độc tài người dân cũng đi bỏ phiếu? Ở những nước tự do như Mỹ, ở Texas, những người cử tri độc lập không có quyền tham dự vào cuộc bầu cử sơ bộ (primary) nếu họ không chọn đảng, mà đã là độc lập thì tại sao phải chọn đảng? Phải chăng đây là cuộc chơi thiếu dân chủ bởi người cử tri độc lập không có quyền lựa chọn ông A (thuộc đảng X) cho chức vụ Thượng Viện và bà B (thuộc đảng Y) cho chức vụ Hạ Viện trong cuộc tranh cử sơ bộ?

Nếu cho rằng đa số thắng thiểu số thì dân tộc Kinh (đa số người Việt là dân tộc Kinh) bỏ phiếu chà đạp quyền sống của dân tộc Thượng tại Việt Nam thì phải chăng đó là dân chủ? Nếu các nước trên thế giới, dựng chuyện giả tạo để mục đích tôn tính một nước khác, qua Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, bỏ phiếu đánh nước A với sự đồng ý 70% của thành viên Liên Hiệp Quốc thì phải chăng đó cũng là dân chủ?

Nếu cho rằng đa số thắng thiểu số, một cá nhân (thiếu nhân cách, nhân đạo, nhân sinh, sẵn sàng nói dối để đạt mục đích) chủ trương ma đạo và một cá nhân (có nhân cách, nhân đạo, nhân sinh, nói thật dù sự thật đau lòng) chủ trương nhân đạo được chọn ra tranh cử. Nhưng người chủ trương ma đạo, vì mục đích bất chấp thủ đoạn, vận động hành lang bằng những hứa hẹn quyền lực, tiền bạc, quyền lợi cho những người có thể bỏ phiếu trước cuộc bầu cử, kêu gọi những người cùng phe mình là số đông, bỏ phiếu để chọn mình và kết quả của sự vận động hành lang đó, người ma đạo thắng cử lãnh đạo tổ chức. Vậy thì đây có phải là hình ảnh của sinh hoạt dân chủ?

Nếu trong một đất nước chỉ có 66% số người (34% còn lại quyết định tẩy chay, không đi bầu) đi bỏ phiếu để tham dự cuộc bầu cử và người thắng cử đạt con số 40% trong số 66% thì phải chăng đây là sự lựa chọn của đa số trong tổng số 100%?

Đây là những câu hỏi đặt ra để người Việt quan tâm đến nền dân chủ ở tương lai cần phải thảo luận cho tận gốc của vấn đề. Tuy nhiên trước khi thảo luận với những câu hỏi đặt ra, mọi người phải tìm câu trả lời, Dân Chủ Dựa Trên Nền Tảng Nào?

Lý Đông A vào thời điểm 1940 đã nhận định “Dân Chủ phải lấy cái gốc Nhân Chủ”. Mà Nhân Chủ là sự Tự Giác để tự bản thân mình biết lối hành xử dựa vào nền tảng của Nhân Đạo, Nhân Sinh, Nhân Tâm, Nhân Trí, Nhân Tri, Nhân Cách, và Nhân Phẩm. Sự Tự Giác đó đòi hỏi tự bản thân phải biết Tu Dưỡng để thắng Tham-Sân-Si của chính bản thân thay vì để Tham-Sân-Si làm chủ Con Người của mình; để biến bản thân mình thành con Ma Tiền, Ma Quyền, Ma Danh, Ma Dâm. Ma của người chết không hại xã hội nhưng Ma của người sống làm hại đến xã hội.

Vậy thì trước khi thảo luận Dân Chủ thì người Việt cần thảo luận Nhân Chủ. Không đồng ý trên cái gốc của nền tảng Nhân thì tất cả những thảo luận về Dân Chủ chỉ là ngọn, sẽ không bao giờ giải đáp được bài toán của xã hội.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 11 năm 2024 (Việt lịch 4903)

Nguồn: https://nganlau.com/2025/01/01/dan-chu-la-gi/

 

 

Nhân Chủ Là Gì?

Nhân là Người. Chủ là mình làm chủ Con Người của chính mình.

Nhân Chủ được hiểu ở một nghĩa rộng lớn là sự tự giác, giác ngộ. Chưa có trường sở nào dạy sự tự giác hay giác ngộ. Cho nên Nhân Chủ là một sự cố gắng từ bản thân, khi nhận diện ra những Tham-Sân-Si có sẵn trong Con Người của mình; và thấy rằng những Tham-Sân-Si đó, nếu không kiềm chế sẽ tạo ra rối loạn cho bản thân và xã hội.

Tự giác để biết điều chỉnh bản thân hằng ngày, hằng giờ hầu có lối ứng xử với Người, với xã hội cho hài hòa thay vì là kích động của ham muốn, của bạo lực.

Muốn đạt được Nhân Chủ, cá nhân phải có sự tu dưỡng ở bản thân. Sự tu dưỡng đó để thấy rằng, một cá nhân, dù tài giỏi cách mấy, vẫn không làm được gì nếu không có sự giúp đỡ từ xã hội. Cá nhân nhờ vào xã hội để sống và tồn tại. Ngược lại xã hội nhờ cá nhân để mọi người trong xã hội cùng tiến.

Cá nhân và xã hội là hai thực thể luôn luôn có những xung khắc. Tuy nhiên xung khắc không có nghĩa là phải triệt tiêu lẫn nhau. Trái lại khi nhìn ra được sự xung khắc đó, mỗi cá nhân sống trong xã hội phải tự tìm ra giải pháp để giảm bớt sự xung khắc đó. Có những lúc quyền lợi cá nhân phải đặt dưới quyền lợi xã hội và ngược lại quyền lợi xã hội vẫn phải tôn trọng quyền lợi của cá nhân.

Thí dụ 1: Vì nhu cầu cuộc sống, cá nhân sản xuất một sản phẩm mà sản phẩm đó có hại đến sức khỏe của người tiêu dùng. Trong trường hợp này, nếu là một cá nhân có sự tự chủ, tự giác, sẽ không làm ra sản phẩm này mà tìm ra một sản phẩm khác để phục vụ xã hội và cuộc sống của chính mình.

Thí dụ 2: Vì nhu cầu của xã hội phát triển đường xá, một phần đất của tư nhân phải được mua lại để tạo ra phương tiện lưu thông. Nhưng không vì lợi ích của xã hội mà sự mua lại miếng đất từ tư nhân với giá rẻ mạt.

Tu dưỡng bản thân để thấy được sự nguy hiểm của mạng xã hội, từ đó không chia sẻ những hình ảnh, tin tức mà chính mình chưa kiểm chứng; hoặc chia sẻ những hình ảnh vì cảm tính thay vì là khách quan. Thời đại của AI (thông minh nhân tạo), một đoạn thu hình có thể là giả tạo chứ đừng nói đến một tấm hình. Một đoạn thu âm cũng có thể là giả tạo do AI dựng lên.

Tu dưỡng bản thân để không tôn sùng lãnh tụ, những người có bằng cấp, có tiền, có địa vị cao trong xã hội. Tất cả những hình ảnh trên chỉ là ngọn, là bề ngoài. Bên trong những Con Người đó mới là quan trọng. Họ có Nhân Tính, Nhân Cách, Nhân Phẩm, Nhân Tri, Nhân Tâm, Nhân Trí hay không mới là cái quan trọng của một Con Người. Một bác nông dân bình thường đôi khi có phẩm chất Người cao hơn vị bác sĩ vì ham tiền để lạm dụng chương trình phúc lợi xã hội cho người nghèo.

Tu dưỡng bản thân để biết được khả năng của chính mình, từ đó đặt mình vào đúng vị trí của xã hội. Ham muốn ai cũng có nhưng ham muốn mà không có khả năng, nếu không có sự tu dưỡng, sự ham muốn đó sẽ biến Con Người dùng ma đạo để đạt ham muốn đó. Chưa kể nếu có khả năng thì cái ham muốn đó mục đích để phục vụ ai? Xã hội hay chính bản thân mà thôi? Nếu phục vụ cho bản thân thì xã hội có bị thiệt hại hay không?

Tu dưỡng bản thân để biết sống thực, sống biết, sống đúng, và sống thiện. Đừng để bản thân ”sống’’ nhưng thực tế là sống giả, sống sai, sống ác, sống gian dối, sống làm nô tài.

Nhân Chủ là đều ai cũng có thể làm được qua sự tu dưỡng bản thân. Chủ đề tu dưỡng bản thân rộng lớn và dễ làm chứ không khó. Các bạn có thể vào đường link để tìm hiểu thêm. Chỉ khi nào hiểu được Nhân Chủ và đạt được tự giác -- thì lúc đó thực hiện dân chủ trên nền tảng Nhân Chủ sẽ đạt kết quả tốt hơn. Sẽ không có một lãnh đạo nào thiếu chữ Nhân được chọn vào vị thế lãnh đạo bởi người dân tự làm chủ được chính bản thân mình thì những trò tâm lý, mị dân, khẩu hiệu không lấy được lá phiếu của người dân.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2024 (Việt lịch 4903)

Nguồn: https://nganlau.com/2025/01/07/nhan-chu-la-gi/

 

 

 

Tự Do Là Gì?

Tự do là một vũ khí nguy hiểm, nếu không biết sử dụng thì sẽ làm hại đến xã hội.

Tự do trong suy nghĩ và hành động đã có từ thời nguyên thủy của loài người. Khác chăng là tự do thời nguyên thủy không có giới hạn trong khi tự do thời đại của thế kỷ 21 luôn luôn có giới hạn trong phạm vi của luật pháp cho phép. Luật pháp không thể nào đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường của loài người mà trong đó có quyền tự do.

Phải nhìn tự do là một vũ khí nguy hiểm để khi chính bạn sử dụng nó, bạn phải tự hỏi cái mình đang làm (suy nghĩ, hành động) có hại đến xã hội hay không và nếu hại thì mức độ nguy hiểm đó ra sao so với lợi ích của nó?

Tự do phải đi kèm với trách nhiệm. Tự do không đi kèm với trách nhiệm là một tự do thời nguyên thủy loài người, một tự do mà mọi người (thời nguyên thủy và hiện tại) thấy rằng nguy hiểm, cần phải loại bỏ. Từ đó loài người chấp nhận tự do đi kèm với trách nhiệm.

Tự do không cho phép bất cứ cá nhân nào nói dối, chia sẻ những sự kiện không có thật, hình ảnh không có thật qua mạng xã hội. Cái không thật đó sẽ hại đến nhiều người trong xã hội. Đây là hành động lạm dụng tự do, phá hoại xã hội chứ không phải thực hiện tự do.

Tự do ngoài trách nhiệm còn phải mang tính Nhân Bản, Nhân Sinh, Nhân Tâm, Nhân Đạo, Nhân Phẩm, Nhân Cách, Nhân Tri, Nhân Trí, Nhân Chủ. Những Nhân này là nền tảng của bất cứ tự do nào. Không có nền tảng này thì tự do là một nguy hiểm cho xã hội.

Thực hiện tự do với trách nhiệm và nền tảng Nhân luôn luôn có giá trả -- bởi tự do luôn luôn bị thách thức từ những nhà cầm quyền độc tài, giả dân chủ, lạm dụng dân chủ -- từ đó họ luôn luôn tìm đủ mọi cách đàn áp những ai thực hiện tự do.

Không ai, không một cơ chế nào có thể lấy quyền tự do của chính bạn. Tuy nhiên bạn có thực hiện quyền tự do của chính bạn hay không, trên nền tảng nào, với trách nhiệm nào là ở quyết định của bạn.

Tự do là tranh đấu từng ngày, từng giờ ở chính mình để tự mình có thể tự do hành xử hài hòa trong sinh hoạt của xã hội. Dùng Ma Đạo trong xã hội thì không thể nào gọi là thực hiện tự do bởi Ma Đạo sẽ tạo ra bất ổn cho xã hội.

Tự do đầu tiên và cuối cùng ở chính bạn.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Tháng 12 năm 2024 (Việt lịch 4903)

https://nganlau.com/2025/01/15/tu-do-la-gi/

 

 

Xã Hội Sinh Mệnh (P1)

Trong xã hội dân chủ, hiến pháp thường nhắc tới tự do, bình đẳng, nhân quyền, dân quyền ... vì mọi người sinh ra như nhau khi có cùng tinh t...